Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý (loại Heroine) số 152/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 152/2021/HS-ST NGÀY 23/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 23 tháng 12 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 135/2021/TLST- HS ngày 04 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 153/2021/QĐXXST- HS ngày 09/12/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Chính C, sinh ngày 05/01/1990;

Nơi ĐKHKTT: Xóm 02, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang;

Nơi đăng ký tạm trú: Tổ dân phố 03, phường H, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Trần Chính T, sinh năm 1957 và bà Đỗ Thị T, sinh năm 1959; Anh, chị em ruột: Có 03 người, bị cáo là thứ ba; Vợ:

Trần Thị Thanh H, sinh năm 1993; Con: có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014.

* Tiền án: Không.

* Tiền sự:

+ Ngày 19/6/2020 Công an huyện S xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau, phạt tiền 500.000 đồng (Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 174), nộp phạt ngày 15/10/2020.

- Nhân thân:

+ Ngày 28/11/2012 Tòa án nhân dân huyện S xử phạt 08 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 13 tháng 12 ngày, về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 84/2012/HSST), chấp hành xong bản án ngày 09/01/2014;

+ Ngày 11/3/2015 Công an huyện S xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau, phạt tiền 750.000 đồng (bẩy trăm năm mươi nghìn đồng) (Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 156);

+ Ngày 13/4/2015) Tòa án nhân dân thành phố T xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 24/2015/HSST) chấp hành xong bản án ngày 24/11/2015.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/7/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 23/7/2021, Trần Chính C, cư trú tại Tổ dân phố 03, phường H, thành phố T, điều khiển xe môtô biển số 22B1-X, xe C mượn của bạn là Nguyễn Thị Kim O đến khu vực bến phà cũ thuộc phường M, thành phố T, mục đích tìm mua ma túy sử dụng. Đến nơi, C gặp và hỏi mua ma túy của một người đàn ông, không xác định được tên, địa chỉ cụ thể, người đàn ông đồng ý. C đưa cho người đàn ông 200.000 đồng, người đàn ông cầm tiền, đưa cho C 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột Heroine vón cục màu trắng và cho C thêm 01 túi nilon màu trắng bên trong có một viên nén Methamphetamin màu hồng. C cầm hai gói ma túy người đàn ông đưa đi ra khu vực vắng người ở gần đó lấy một ít Heroine trong gói vừa mua được sử dụng bằng hình thức đốt hít vào cơ thể, số Heroine còn lại C gói lại như cũ. C cầm gói Heroin và Methamphetamine ở tay, điều khiển xe môtô về đến phòng trọ ở Tổ dân phố 03, phường H, thành phố T thì bị Tổ công tác Công an thành phố T yêu cầu kiểm tra. Do hoảng sợ, C thả 02 gói ma túy cầm ở tay xuống đất, Tổ công tác lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với C vào hồi 22 giờ 20 phút cùng ngày, thu giữ của 02 gói ma túy của C.

Tại Kết luận giám định số 684/GĐKTHS ngày 27/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận:

- Chất bột vón cục màu trắng thu giữ của Trần Chính C gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng là 0,128g (không phẩy một hai tám gam).

- Viên nén màu hồng thu giữ của Trần Chính C gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng là 0,064g (không phẩy không sáu tư gam).

Kết quả xét nghiệm tìm chất ma túy ngày 23/7/2021, đối với bị cáo là (+) dương tính, có chất ma túy trong cơ thể.

Tại bản Cáo trạng số 136/CT-VKSTP ngày 03 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố bị cáo Trần Chính C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Trần Chính C về điều luật và tội danh đã nêu trong cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Trần Chính C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo Trần Chính C từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn bên trong có khối lượng Heroine còn lại sau khi lấy mẫu giám định (là tang vật của vụ án).

- Tuyên nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo đối với bị cáo theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Trần Chính C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục nhận tội, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Chính C tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 22 giờ 20 phút ngày 23/7/2021, tại Tổ dân phố 03, phường Tân Hà, thành phố Tuyên Quang, Trần Chính C, cư trú tại Tổ dân phố 03, phường Tân Hà, thành phố Tuyên Quang có hành vi tàng trữ trái phép 0,128g (không phẩy một hai tám gam) Heroine và 0,064g (không phẩy không sáu tư gam) Methamphetamine, mục đích để sử dụng Bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép 02 chất ma túy để sử dụng, khối lượng các chất ma túy bị cáo phải chịu trách nhiệm như sau: Heroine và Methamphetamine là các chất ma túy được quy định trong cùng một điểm tại các khoản của Điều 249 Bộ luật Hình sự nên tổng khối lượng của hai chất ma túy này là: 0,128g + 0,064g = 0,192g, tương đương với khối lượng ma túy được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Như vậy trong trường hợp này tổng khối lượng của 02 chất ma túy Heroine và Methamphetamine mà bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, hành vi của bị cáo xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, hành vi của bị cáo cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố T. Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xét xử và xử lý hành chính về hành vi liên quan đến ma túy, bản thân bị cáo sống tại trung tâm thành phố, có nhận thức pháp luật, hiểu được tác hại của ma túy nhưng không rút kinh nghiệm mà còn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, qua đó đánh giá ý thức pháp luật của bị cáo là rất kém, Do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt nghiêm khắc tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm C.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng ma tuý mà bị cáo tàng trữ cũng như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập thường xuyên; không có tài sản riêng có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo đúng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T.

[6] Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo. Công an thành phố T đã xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 003074 ngày 28/7/2021, hình thức phạt tiền 750.000 đồng (bẩy trăm năm mươi nghìn đồng) Đối với người đàn ông theo bị cáo khai nhận là người bán ma túy cho bi cáo tại khu vực bến phà cũ thuộc phường M, thành phố T nhưng không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không xem xét xử lý.

Đối với Nguyễn Thị Kim O cho bị cáo mượn xe mô tô biển số 22B1-X nhưng không biết bị cáo sử dụng xe làm phương tiện đi mua ma túy để sử dụng nên không xem xét xử lý.

[7] Về vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ 01 phong bì dán giấy kín còn nguyên vẹn, mặt sau trên các mép dán có chữ ký của bị cáo, thành phần tham gia niêm phong và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong chứa 0,078g Heroine (khối lượng còn lại sau khi lấy mẫu giám định); Tạm giữ xe môtô biển số 22B1-X. Xét thấy heroine là chất nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy: Đối với chiếc xe môtô biển số 22B1-X, ngày 04/10/2021 Cơ quan điều tra trả lại chiếc xe trên cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị Kim O, chị Nguyễn Thị Kim O không có yêu cầu gì về xe nên HĐXX không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[8] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng(hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Trần Chính C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt bị cáo Trần Chính C 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (24/7/2021).

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, bên trong chứa 0,078g Heroine (khối lượng còn lại sau khi lấy mẫu giám định) Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/11/2021, giữa Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Trần Chính C phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án 23/12/2021./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý (loại Heroine) số 152/2021/HS-ST

Số hiệu:152/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;