Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý (loại Heroine) số 14/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LÁT, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 14/2021/HS-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 27/4/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 09/2021/TLST-HS ngày 02/04/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2020/QĐXXST-HS ngày 16/04/2020 đối với bị cáo:

Đặng Hùng M ; sinh năm 1990, Quê quán và nơi cư trú: Thôn Phượng K, xã H, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lái máy xúc. Trình độ học vấn: 12/12.

Con ông: Đặng Quốc K , sinh năm: 1968. Con bà: Trần Thị N , sinh năm: 1971. Vợ: Nguyễn Thị Q , sinh năm: 1991. Con: Đặng Triệu Tuấn T , sinh năm 2014.

Bố, mẹ và vợ, con của bị cáo đều cư trú tại Thôn Phượng K, xã H, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Tiền án; Tiền sự: Không. Bị tạm giữ ngày 25/12/2020, chuyển tạm giam ngày 31/12/2020 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 25/12/2020, bị cáo đi bộ từ bản Pá Hộc đến bản Cặt, xã Nhi Sơn, huyện Mường Lát tìm mua ma túy sử dụng. Đến bản Cặt bị cáo vào nhà một người đàn ông dân tộc Mông tên D đưa cho D 50.000 đồng nhờ đi mua ma túy. D cầm tiền đi mua ma túy, khoảng 10 phút sau D quay lại đưa cho bị cáo một gói nilon màu hồng bên trong chứa Heroine. Nhận được ma túy bị cáo chia làm 02 phần: 01 phần gói bằng nilon màu hồng và bọc bằng lớp giấy bạc của bao thuốc lá rồi bỏ vào trong bao thuốc lá và để trong túi áo ấm bên phải bị cáo đang mặc, phần còn lại bị cáo cho vào trong ống bơm kim tiêm để trong túi quần bên trái đang mặc trên người rồi quay về bản Pá Hộc. Trên đường đi thuộc địa phận bản Cặt, xã Nhi Sơn, huyện Mường Lát thì bị tổ công tác Công an huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa yêu cầu dừng lại để kiểm tra. Quá trình kiểm tra phát hiện và thu giữ toàn bộ số ma túy bị cáo cất giấu trong người.

Tại bản kết luận giám định số: 163/PC09 ngày 30/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận:

- Cục bột dạng nén màu trắng đựng trong gói giấy bạc của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,119g (không phẩy một một chín gam) loại: Heroine.

- Cục bột dạng nén màu trắng đựng trong gói nilon màu hồng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,048g (không phẩy không bốn tám gam) loại: Heroine).

Bản cáo trạng số: 15/CT-VKS-MT ngày 31/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tranh luận và luận tội: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi. Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố: Bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy Về điều luật: Áp dụng: Điều 38; điểm s khoản 1 điều 51; Điểm c khoản 1 điều 249 BLHS;

Về hình phạt:

Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo từ 13 đến 15 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, vì bị cáo làm nghề lái máy xúc thuê, công việc không ổn định, thu nhập thấp nên không có tính khả thi.

Về vật chứng: Xử lý theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Bị cáo xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng biện pháp ép cung, bức cung hay nhục hình, bị cáo khai, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy trái phép để sử dụng là vi phạm pháp luật và bị Nhà Nước nghiêm cấm nhưng do bản thân bị nghiện chất ma túy, không kìm chế được bản thân nên đã cố tình phạm tội. Bị cáo công nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã nêu là đúng, bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận tội, không thay đổi, bổ sung thêm gì làm thay đổi nội dung vụ án, không có ý kiến tranh luận với đại diện VKS, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức án thấp nhất của khung hình phạt để bị cáo sớm được về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Lát, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố; Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Chứng cứ xác định có tội, không có tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai nhận tội của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và chứng cứ khác trong hồ sơ, đủ cơ sở khẳng định bị cáo tàng trữ 0,167 gam Heroine đã cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện.

Với hành vi, tính chất vụ án, năng lực chịu trách nhiệm hình sự của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại các cơ quan tố tụng cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS.

Với các tình tiết này HĐXX xem xét xử bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.

[4] Xét về hình phạt:

Hình phạt chính: Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Thấy rằng đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về mức hình phạt cho bị cáo là phù hợp với hành vi phạm tội và khối lượng chất ma túy thu giữ, đã đủ sức răn đe, phòng ngừa chung.

Hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, cho thấy bị cáo làm nghề Lái máy xúc, có thu nhập nên HĐXX áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Xét về vật chứng trong vụ án:

Số ma túy còn lại sau giám định là chất Nhà nước Việt Nam cấm lưu hành, cần tịch thu, tiêu hủy.

[6] Xét về phần án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp án phí HSST và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[7] Các nhận định khác:

Theo lời khai của bị cáo, người đàn ông tên D đã đi mua ma túy giúp bị cáo, Cơ quan CSĐT đã tiến hành xác minh, nhưng tại bản Cặt, xã Nhi Sơn, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa không có người đàn ông nào tên D có đặc điểm như bị cáo miêu tả. Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường Lát sẽ tiếp tục xác minh, nếu đủ căn cứ thì xử lý trong vụ án khác.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Về tội danh: Tuyên: Bị cáo Đặng Hùng M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý

Về điều luật: Áp dụng: Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm c khoản 1; khoản 5 điều 249; Điều 38; Điều 50; Điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo 15 (mười lăm) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày tạm giữ (25/12/2020).

- Hình phạt bổ sung: Xử bị cáo phải nộp 5.000.000đ (Năm triệu đồng)

Về tang vật: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy: Phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành ghi vụ Đặng Hùng M , được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên của Nguyễn Trần Đ , Lê Minh T , Lương Xuân M cùng các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa đóng giáp lai. Phong bì niêm phong còn nguyên vẹn.

Vật chứng kể trên đang lưu giữ, bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa, theo Quyết định chuyển vật chứng số: 10/QĐ-VKS- ML, ngày 31/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát và Biên bản giao nhận vật chứng số: 24/2021/TV-CCTHADS ngày 01/4/2021 giữa Công an huyện Mường Lát và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Lát.

Về án phí: Áp dụng điều 135, điều 136 BLTTHS; Khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Tuyên: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí HSST.

Quyền kháng cáo, kháng nghị: Căn cứ điều 331, điều 333 và điều 337 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Án xử công khai; có mặt bị cáo, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý (loại Heroine) số 14/2021/HS-ST

Số hiệu:14/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Lát - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;