Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (loại Heroine) số 10/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH LỤC, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 10/2022/HS-ST NGÀY 22/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 04/2022/TLST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 02 năm 2022 đối với:

Bị cáo: Lê Văn D, sinh năm 1990 tại xã Tr, huyện Tr, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Đội 12, xã Tr, huyện Tr, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Quang V (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; vợ, con: chưa; tiền án: không; tiền sự: Ngày 07/6/2019 Tòa án nhân dân huyện Tr, tỉnh Nam Định ra Quyết định số 03/2019/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; bị bắt tạm giữ từ ngày 27/10/2021, chuyển tạm giam từ ngày 05/11/2021 đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 27/10/2021, tại đoạn đường ĐT496 thuộc địa bàn thôn 3, xã B, huyện B, tỉnh Hà Nam; lực lượng Công an huyện Bình Lục phối hợp cùng Công an xã B tuần tra, phát hiện Lê Văn D có biểu hiện nghi vấn liên quan đến tội phạm về ma túy nên yêu cầu kiểm tra, phát hiện 02 gói được gói ngoài bằng ni lông màu đen, mở ra đều có giấy bạc màu trắng, bên trong mỗi gói đều chứa chất bột dạng cục màu trắng để trong bao thuốc lá Thăng Long ở túi áo khoác phía trong bên trái D đang mặc, D khai nhận đó là Heroine mà D cất giấu để sử dụng. Lực lượng Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng trong phong bì ký hiệu QT.

Quá trình điều tra, Lê Văn D khai nhận: Khoảng 06 giờ ngày 27/10/2021, Lê Văn D đang ở nhà tại đội 12, xã Tr, huyện Tr, tỉnh Nam Định thì có người bạn tên L nhà ở thành phố Nam Định điều khiển xe mô tô Wave anpha màu xanh đến rủ D đi mua Heroine để sử dụng thì D đồng ý. L điều khiển xe mô tô chở D ngồi sau đi đến một quán nước ở thành phố N thì L bảo D vào quán nước ngồi chờ, L đi khoảng 10 phút sau thì quay lại và nói với D “Anh lấy được Heroine rồi”, L điều khiển xe mô tô chở D đi đến một bãi đất trống thì L dừng xe và lấy trong túi áo khoác đang mặc ra 03 gói Heroine được gói ngoài bằng ni lông màu đen, L đưa cho D 02 gói Heroine, D cầm để trong bao thuốc lá Thăng Long rồi cất vào túi áo khoác phía trong bên trái đang mặc. L chia đôi gói Heroine còn lại để L và D cùng sử dụng bằng hình thức chích vào cơ thể, sau đó L rủ D đi về quê của L ở huyện B, tỉnh Hà Nam để ăn giỗ thì D đồng ý. Khoảng 09 giờ cùng ngày, khi L chở D đi đến đoạn đường ĐT496 thuộc địa bàn thôn 3, xã B, huyện B thì D bảo L dừng xe trước một cửa hàng tạp hóa để D vào mua chai nước uống, D xuống xe còn L điều khiển xe mô tô đi đâu D không biết. Ngay lúc này lực lượng Công an tuần tra yêu cầu kiểm tra, phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Văn D tại đội 12, xã Tr, huyện Tr, tỉnh Nam Định. Quá trình khám xét không thu giữ được đồ vật, tài sản, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Tại Bản kết luận giám định về ma túy số 1393/GĐKTHS ngày 28/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: “Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 02 gói giấy bạc màu trắng bên ngoài đều bọc ni lông màu đen, trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu QT gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Tổng khối lượng mẫu QT: 0,255 gam ”.

Cáo trạng số 06/CT-VKS-MT ngày 18/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam truy tố Lê Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Văn D từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy vật chứng hoàn trả sau giám định.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn D đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 09 giờ ngày 27/10/2021, tại đoạn đường ĐT496 thuộc địa bàn thôn 3, xã B, huyện B, tỉnh Hà Nam; Lê Văn D có hành vi tàng trữ trái phép 0,255 gam Heroine với mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt giữ.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.

Do vậy, hành vi của Lê Văn D đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy:

Về nhân thân: Bị cáo là đối tượng có tiền sự, đã bị Tòa án áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Lê Văn D khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bản thân bị cáo có thời gian tham gia và hoàn thành nghĩa vụ quân sự nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xem xét đánh giá khách quan, toàn diện vụ án cũng như các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, không có thu nhập và không có tài sản riêng gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với số Heroine hoàn trả sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về các vấn đề khác trong vụ án: Tài liệu điều tra không đủ căn cứ xem xét về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lê Văn D ngày 27/10/2021 cũng như không xác định được đối tượng tên L và nguồn gốc số Heroine để xử lý.

[7] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình sự: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Tuyên bố bị cáo Lê Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn D 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/10/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số Heroine hoàn trả sau giám định trong 01 phong bì niêm phong, có số 1393/GĐKTHS (Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Lục và Chi cục thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Hà Nam ngày 19/01/2022).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lê Văn D phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (loại Heroine) số 10/2022/HS-ST

Số hiệu:10/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Lục - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;