Bản án 19/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (loại Heroin)

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 19/2024/HS-ST NGÀY 24/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 01 năm 2024 tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 08/2024/TLST-HS, ngày 04 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2024/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Trọng Đ; Giới tính: Nam; Sinh năm 1991 tại tỉnh Long An; Nơi thường trú và cư trú: Khu phố 1C, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 3/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn H và bà Nguyễn Thị C; Bị cáo khai chưa có vợ, con. Tiền án: Không;

Tiền sự:

+ Ngày 26/11/2021, Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 256/2021/QĐ-TA đưa Đ vào cơ sở cai nghiện bắt buộc vì đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Đến ngày 01/12/2022 Cơ sở cai nghiện Phước Bình đã cấp giấy chứng nhận chấp hành xong quyết định.

+ Ngày 20/4/2023, Tòa án nhân dân huyện Cần Đước, tỉnh Long An ban hành Quyết định số 31/QĐ-TA đưa Đ vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng vì đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo chưa thi hành, lại tiếp tục phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy bị bắt quả tang ngày 23/7/2023.

Nhân thân:

+ Ngày 25/3/2010, Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 116/2010/HSST. Ngày 03/02/2016 Trại giam Xuân Lộc cấp giấy chứng nhận số 121/GCN chấp hành xong hình phạt tù. Qua xác minh bị cáo đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm ngày 18/6/2010.

+ Ngày 27/9/2017, Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án số 437/2017/HSST. Ngày 17/10/2023 Trại giam Sông Cái có công văn số 1388/CV- SC cung cấp phạm nhân Trần Trọng Đ đã chấp hành xong ngày 24/6/2019. Qua xác minh bị cáo đã nộp 200.000 án phí hình sự sơ thẩm ngày 27/3/2018.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/7/2023. (có mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Huỳnh Công C, sinh năm 1986; Nơi cư trú: B2/55 Ấp 2, xã Đ, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 02 giờ 30 phút ngày 23/7/2023, Tổ tuần tra 363 và Công an huyện Bình Chánh tuần tra đến trước địa chỉ E8/225 Quốc lộ 50, Ấp 5, xã P, huyện B thì phát hiện hai thanh niên đang điều khiển xe mô tô biển số 53R1-xxxx có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành dừng xe để kiểm tra. Qua kiểm tra người điều khiển xe mô tô là Huỳnh Công C, người ngồi phía sau là Trần Trọng Đ, phát hiện trong túi nhỏ phía trước bên phải quần của bị cáo đang mặc có 01 gói nylon hàn kín chứa chất bột màu trắng mà bị cáo khai nhận là ma túy (loại Heroine) của bị cáo mua, cất giữ nhằm mục đích sử dụng nên lực lượng Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong tang vật theo quy định và đưa bị cáo về trụ sở để lập hồ sơ ban đầu. Sau đó, vụ việc được chuyển đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Chánh để điều tra xử lý.

Kết luận giám định số 8077/KL-KTHS ngày 31/7/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Bột màu trắng trong 01 gói nylon được ký hiệu mẫu m thu giữ của Trần Trọng Đ là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1893gam, loại Heroin.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Trần Trọng Đ khai nhận: Bản thân là người nghiện ma túy từ năm 2013. Vào khoảng 20 giờ ngày 22/7/2023, bị cáo một mình đi đến khu vực giao lộ đường Bình Đông và đường Bùi Huy Bích, Phường 13, Quận 8. Tại đây, bị cáo gặp được một người đàn ông (không rõ lai lịch) mua 300.000 đồng ma túy loại Heroin. Người này đưa cho bị cáo 01 (một) gói nylon chứa ma túy loại Heroin. Bị cáo nhận lấy ma túy rồi tìm chỗ vắng người để sử dụng. Bị cáo đã sử dụng số ma túy trên được 02 lần tại các địa điểm mà bị cáo không nhớ rõ địa chỉ. Số ma túy còn lại bị cáo cất giữ trong túi quần nhỏ phía trước bên phải của bị cáo. Vào tối ngày 22/7/2023, bị cáo gặp một người bạn ngoài xã hội là Huỳnh Công C nên bị cáo nhờ C chở về dùm, C đồng ý. C điều khiển mô tô chở bị cáo đến nhà một người bạn ở thị trấn Cần Đước để chơi, trên đường đi thì bị Công an kiểm tra, phát hiện bị cáo cất giữ trái phép chất ma túy như đã nêu trên. Đối với Huỳnh Công C không biết và không liên quan gì đến số ma túy mà Công an thu giữ của bị cáo. Lời khai của Trần Trọng Đ phù hợp với Huỳnh Công C và biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Cáo trạng số 22/CT-VKSBC ngày 28/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo Trần Trọng Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

Bị cáo Trần Trọng Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố. Bị cáo thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo không tranh luận và lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Trọng Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo từ 03 năm đến 04 năm tù.

Về vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói nylon bên trong có ma túy ở thể rắn còn lại sau giám định và 01 kim tiêm; Lưu theo hồ sơ vụ án 01 đĩa DVD ghi âm, ghi hình đối với bị cáo Trần Trọng Đ; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Poco cùng sim.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, đương sự không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên tòa, có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau:

Vào ngày 23/7/2023, tại địa chỉ E8/225 Quốc lộ 50, Ấp 5, xã P, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Trần Trọng Đ đã có hành vi tàng trữ 0,1893 gam ma túy loại Heroin nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang.

Như vậy, có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Trần Trọng Đ đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) để giảm một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có nhân thân xấu bị xử lý hình sự về tội “Mua bán trái phép chất ma túy túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy túy”, bị cáo còn có 02 tiền sự bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc vì đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Hội đồng xét xử sẽ lưu ý khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[4] Đối với Huỳnh Công C quá trình điều tra do C không biết và không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh không xử lý.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, do chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Chánh đang tiếp tục xác minh làm rõ, khi làm rõ xử lý sau.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) gói nylon là ma túy ở thể rắn, loại Heroin còn lại sau giám định và 01 kim tiêm: Đây là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Poco, cùng sim thu giữ của Trần Trọng Đ: Xét thấy đây là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 đĩa DVD ghi âm, ghi hình đối với bị cáo Trần Trọng Đ: tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Trần Trọng Đ: 04 (bốn) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 23/7/2023.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

2.1. Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư niêm phong bên ngoài có chữ ký bị cáo, người chứng kiến, điều tra viên và hình dấu Công an xã P, huyện B, bên trong là 01 (một) gói nylon là ma túy ở thể rắn, loại Heroin còn lại sau giám định và 01 kim tiêm.

2.2. Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Poco, cùng sim.

(Các vật chứng trên đang giữ tại Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 03/01/2024 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh).

- Lưu cùng hồ sơ vụ án: Đối với 01 đĩa DVD ghi âm, ghi hình (vật này đang lưu cùng hồ sơ vụ án).

3. Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Trần Trọng Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

4. Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

336
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 19/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (loại Heroin)

Số hiệu:19/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;