Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (hồng phiến) số 61/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 61/2021/HS-ST NGÀY 08/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 54/2021/TLST-HS ngày 06/5/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2021/QĐXXST-HS ngày 25/5/2021, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Nhật T, sinh ngày 08/4/1999 tại Quảng Trị; nơi cư trú: Thôn Q, xã TĐ, huyện TP, tỉnh Quảng Trị; trình độ học vấn: 8/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Hữu D, sinh năm 1972 và bà Hồ Thị T, sinh năm 1976; gia đình có 03 anh, chị, em, bị cáo là con thứ 02; vợ, con: Chưa có;

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 10/10/2019, bị Công an huyện Triệu Phong ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, với số tiền 1.000.000 đồng (đã chấp hành ngày 15/10/2019).

2. Lê Quang L, sinh ngày 10/9/2000 tại Quảng Trị; nơi cư trú: Thôn Q, xã TĐ, huyện TP, tỉnh Quảng Trị; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Phụ hồ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Quang V, sinh năm 1977 và bà Lê Thị H, sinh năm 1980; gia đình có 02 anh, em, bị cáo là con thứ nhất; vợ, con: Chưa có;

Tiền án, tiền sự: Không.

3. Hàn Minh K, sinh ngày 16/11/1990 tại Quảng Trị; nơi cư trú: Thôn Đ, xã TĐ, huyện TP, tỉnh Quảng Trị; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Hàn Minh K (đã chết) và bà Nguyễn Thị Diệu H, sinh năm 1968; gia đình có 03 anh, em, bị cáo là con thứ nhất; có vợ là: chị Nguyễn Thị Kim O (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2014.

Tiền án, tiền sự: Không.

Các bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2021 tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Quảng Trị đến nay, đều có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 11/01/2021, tại ngã ba Đại Hào, thuộc thôn Đại Hào, xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong, Nguyễn Nhật T rủ Hàn Minh K và Lê Quang L góp tiền ra thành phố Đông Hà tìm mua ma túy tổng hợp hồng phiến sử dụng thì K và L đồng ý. L góp 200.000 đồng, K góp 150.000 đồng và L góp 150.000 đồng. Sau khi góp tiền xong, cả ba đi taxi ra thành phố Đông Hà, đến nhà nghỉ Phố Mới thuộc khu phố 5, Phường 2, thành phố Đông Hà, thuê phòng số 105. L cầm tiền và đi taxi đến khu vực cầu vượt thuộc khu phố 9, Phường 1, thành phố Đông Hà gặp 01 nam thanh niên tên Cu Anh (không rõ lai lịch, địa chỉ) mua 10 viên ma túy hồng phiến giá 500.000 đồng (số ma túy này được để trong một đoạn ống nhựa màu xanh có kẻ sọc màu trắng). Sau khi mua được ma túy, L quay lại phòng 105 nhà nghỉ Phố Mới, thông báo cho L và K biết đã mua được 10 viên ma túy hồng phiến. Cả ba cùng nhau làm dụng cụ và sử dụng hết 05 viên. Còn lại 05 viên để trên giường trước mặt L, K và L, chưa kịp sử dụng thì bị Công an thành phố Đông Hà bắt quả tang, thu giữ.

Theo Kết luận giám định số 123/KLGĐ ngày 14/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận: 05 viên nén hình tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY thu giữ của Nguyễn Nhật T, Hàn Minh K và Lê Quang L có khối lượng 0,5073 gam, là ma túy loại Methamphetamine.

Cáo trạng số 59/CT-VKSĐH ngày 04/5/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà đã truy tố các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Nhật T: từ 16 đến 17 tháng tù.

- Bị cáo Lê Quang L: từ 15 đến 16 tháng tù.

- Bị cáo Hàn Minh K: từ 12 đến 13 tháng tù.

Về vật chứng thu giữ: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy các vật chứng, gồm: 01 bao niêm phong đựng toàn bộ mẫu vật là số ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì có ký hiệu PS3A 077840 có đóng dấu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị; 01 chai nhựa trong, cao khoảng 20cm và 01 bật lửa ga màu đỏ, đã qua sử dụng.

Các bị cáo trình bày lời nói sau cùng:

- Bị cáo Nguyễn Nhật T: Bị cáo biết việc làm của mình là sai trái, chỉ mong Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án thấp nhất có thể.

- Bị cáo Lê Quang L: Bị cáo đã vi phạm pháp luật, chỉ mong được hưởng mức án nhẹ để về với gia đình.

- Bị cáo Hàn Minh K: Bị cáo rất hối hận về việc làm của mình, mong Hội đồng xét xử xử mức án thấp để về nuôi con, giúp đỡ cha mẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đông Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở khẳng định:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 11/01/2021, Nguyễn Nhật T đã rủ Hàn Minh K và Lê Quang L góp tiền ra thành phố Đông Hà tìm mua ma túy với mục đích để sử dụng và đã được K, L đồng ý. L góp số tiền 200.000 đồng, còn K và L mỗi người góp 150.000 đồng. Sau đó, cả ba thuê xe taxi ra thành phố Đông Hà, đến thuê phòng 105 nhà nghỉ Phố Mới thuộc khu phố 5, Phường 2, thành phố Đông Hà. L cầm tiền và đi taxi đến khu vực cầu vượt thuộc khu phố 9, Phường 1, thành phố Đông Hà gặp 01 nam thanh niên tên Cu Anh (không rõ lai lịch, địa chỉ) mua 10 viên ma túy hồng phiến giá 500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, L quay lại phòng 105 nhà nghỉ Phố Mới, thông báo cho L và K biết đã mua được 10 viên ma túy hồng phiến. Cả ba cùng nhau làm dụng cụ và sử dụng hết 05 viên. Còn lại 05 viên để trên giường trước mặt các bị cáo để tiếp tục sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an thành phố Đông Hà phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số ma túy nói trên.

Tại Bản Kết luận giám định số 123/KLGĐ ngày 14/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận: 05 viên nén hình tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY thu giữ của các bị cáo có khối lượng 0,5073 gam, là ma túy loại Methamphetamine.

Như vậy, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, điều luật có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, vai trò của mỗi bị cáo trong vụ án:

Hành vi tàng trữ ma túy loại Methamphetamine của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các loại chất ma tuý. Ma túy là nguồn gốc của các loại tội phạm; không chỉ gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, kinh tế của bản thân người sử dụng ma túy, mà còn ảnh hưởng rất lớn đến gia đình và xã hội. Vì vậy, cần phải xử phạt các bị cáo với mức hình phạt nghiêm để răn đe, giáo dục, đồng thời góp phần vào công tác phòng, chống và đẩy lùi tội phạm, đặc biệt là tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố Đông Hà.

Hành vi phạm tội của các bị cáo có yếu tố đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn. Trong đó, bị cáo Nguyễn Nhật T là người đã khởi xướng, rủ rê các bị cáo Hàn Minh K và Lê Quang L góp tiền mua ma túy sử dụng và đã góp số tiền 200.000 đồng để mua ma túy. Bị cáo Lê Quang L là người góp số tiền 150.000 đồng và trực tiếp đi mua 10 viên ma túy của một nam thanh niên tên Cu Anh (không rõ lai lịch, địa chỉ). Bị cáo Hàn Minh K, sau khi nghe bị cáo L rủ rê góp tiền mua ma túy để sử dụng thì đã đồng ý và góp số tiền 150.000 đồng.

Trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Nhật T là người có nhân thân xấu, năm 2019 đã bị Công an huyện Triệu Phong xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, là người đã khởi xướng, rủ rê các bị cáo K và L sử dụng ma túy và đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo L là người trực tiếp đi mua ma túy, vì vậy, khi áp dụng hình phạt cần có mức án phù hợp với từng bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng.

- Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo đều đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội.

Tính đến ngày xét xử sơ thẩm thời hạn tạm giam của các bị cáo còn dưới 45 ngày nên cần phải ban hành quyết định tạm giam mới.

[5] Về vật chứng thu giữ:

- Số ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì có ký hiệu PS3A 077840 có đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, là chất cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- 01 chai nhựa màu trắng (loại chai nhựa nước ngọt), trên thân chai có đục 01 lỗ, cao khoảng 20cm và 01 bật lửa ga màu đỏ, đã qua sử dụng, là những vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[6] Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã áp dụng các biện pháp nghiệp vụ nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của nam thanh niên tên Cu Anh là người đã bán ma túy cho các bị cáo nên không có cơ sở xử lý.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Nhật T, Lê Quang L Hàn Minh K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Nhật T: 16 (mười sáu) tháng tù.

- Bị cáo Lê Quang L: 15 (mười lăm) tháng tù.

- Bị cáo Hàn Minh K: 13 (mười ba) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của các bị cáo từ tính từ ngày bị bắt tạm giữ 11/01/2021.

3. Về vật chứng thu giữ: Áp dụng các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên xử: Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng, gồm: 01 bao niêm phong đựng toàn bộ mẫu vật là số ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì có ký hiệu PS3A 077840 có đóng dấu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị; 01 chai nhựa trong, cao khoảng 20cm và 01 bật lửa ga màu đỏ, đã qua sử dụng.

Các vật chứng hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 10/5/2021, giữa cơ quan Điều tra Công an thành phố Đông Hà và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, Buộc các bị cáo Nguyễn Nhật T, Hàn Minh K và Lê Quang L, mỗi bị cáo phải chịu số tiền 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

50
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (hồng phiến) số 61/2021/HS-ST

Số hiệu:61/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;