Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (hồng phiến) số 22/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 22/2021/HS-ST NGÀY 07/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào hồi 07 giờ 00 phút, ngày 07 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện H, tỉnh H mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 20/2021/HSST, ngày 26 tháng 4 năm 2021; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2021/QĐXXST-HS, ngày 25/5/2021; Thông báo về thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa số: 06/2021/TB-TA, ngày 07/6/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Phi H; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 17/01/1999; tại huyện Q, tỉnh N; nơi cư trú: Xóm B, xã C, huyện Q, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Phi T và bà Lê Thị H1 (Đã chết); vợ, con: Chưa có; anh chị em ruột: Có 02 người, bị cáo là con thứ nhất; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/01/2021 đến ngày 22/01/2021 chuyển tạm giam, tại trại tạm giam Công an tỉnh H cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Phi H: Ông Trần Thanh M, sinh năm: 1985. Trợ giúp viên pháp lý, trung tâm trợ giúp pháp lý - Sở tư pháp tỉnh H à Tĩnh. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Trung T1. Sinh năm: 1982. Nơi cư trú: Thôn M, xã S, huyện H, tỉnh H à Tĩnh. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến: Ông Lê Văn C. Sinh năm: 1960. Nơi cư trú: Tổ dân phố 5, thị trấn P, huyện H, tỉnh H à Tĩnh. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần sử dụng ma túy, nên khoảng 14 giờ ngày 16/01/2021, Nguyễn Phi H, trú tại xóm B, xã C, huyện Q, tỉnh N điều xe mô tô hiệu Honda, loại Wave anpha màu đỏ, biển kiểm soát 38P1-xxxx mượn của anh Nguyễn Trung T1, trú tại thôn M, xã S, huyện H là chú ruột của mình đến thị trấn V, huyện V để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi, H gặp một người đàn ông quen mặt nhưng không rõ tên, địa chỉ đặt vấn đề hỏi mua 4.500.000 đồng tiền hồng phiến, người này đồng ý và dặn H chờ tại đây. Khoảng 15 phút sau người này quay lại đưa cho H 02 túi ni lông gồm 01 túi màu xanh và 01 túi trong suốt. Biết bên trong có chứa hồng phiến nên H trả tiền rồi điều khiển xe về nhà ông Nguyễn Phi T, là cha đẻ của mình tạm trú tại thôn M, xã S, huyện H. Tại đây, H lấy 02 túi ni lông ra kiểm tra, thấy bên trong túi ni lông màu xanh có 100 viên nén màu hồng, trong túi ni lông trong suốt có 50 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu chữ WY. Sau đó, H cất dấu toàn bộ số viên nén trong người để sử dụng dần. Trong thời gian cất dấu hồng phiến, H đã sử dụng hết 13 viên trong túi ni lông trong suốt. Khoảng 17 giờ 15 phút ngày 19/01/2021, H tiếp tục lấy 05 viên hồng phiến trong túi ni lông trong suốt rồi gói lại trong túi ni lông màu đen. Đồng thời, H lấy túi ni lông màu xanh chứa hồng phiến bỏ vào vỏ hộp thuốc lá hiệu Thăng Long màu xanh và túi ni lông trong suốt chứa hồng phiến còn lại cùng 01 đoạn ống bằng kim loại, màu trắng rồi cất vào túi áo khoác H đang mặc trên người rồi điều khiển xe 38P1- xxxx đi tìm địa điểm để sử dụng. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, khi H đang dừng xe trước khu vực cửa hàng xăng dầu P thuộc tổ dân phố 5, thị trấn P, huyện H thì thấy lực lượng chức năng đến nên vứt 01 gói ni lông màu đen đang cầm trên tay xuống đường thì bị lực lượng chức năng phát hiện, yêu cầu H nhặt lên để kiểm tra, phát hiện bên trong túi ni lông màu đen có chứa 05 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu chữ WY. Tiếp tục kiểm tra trên người H, phát hiện trong túi áo khoác trong bên trái của H có 01 túi ni lông trong suốt bên trong chứa 32 viên nén màu hồng và 01 vỏ hộp thuốc lá hiệu Thăng Long màu xanh, bên trong có 01 túi ni lông màu xanh chứa 100 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu chữ WY; trong túi áo khoác ngoài bên trái của H có 01 đoạn ống bằng kim loại, màu trắng.

* Tại bản Kết luận giám định số 49/GĐMT- PC09 ngày 21/01/2021 của Phòng kỷ thuật hình sự, Công an tỉnh H à Tĩnh, kết luận:

- 05 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu chữ WY đựng trong một gói ni lông màu đen (Ký hiệu M1) gửi giám định là ma túy, là Methamphetamine, có khối lượng 0,4922gam.

- 32 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu chữ WY đựng trong một túi ni lông trong suốt (Ký hiệu M2) gửi giám định là ma túy, là Methamphetamine, có khối lượng 3,1939gam.

- 100 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu chữ WY đựng trong một túi ni lông màu xanh (Ký hiệu M3) gửi giám định là ma túy, là Methamphetamine, có khối lượng 9,8920gam.

* Vật chứng vụ án: - 13,5781 gam Methamphetamine (đã lấy mẫu giám định 0,8015 gam), còn lại 12,7766 gam cùng toàn bộ vỏ bao gói được cho vào 01 phong bì thư, dán kín, trên mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và Nguyễn Phi H; 01 vỏ hộp thuốc lá hiệu Thăng Long, màu xanh; 01 đoạn ống bằng kim loại, màu trắng, dài 10,5cm.

Các vật chứng nêu trên, đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh H à Tĩnh.

- 01 xe mô tô hiệu Honda Wave anpha, màu đỏ, biển kiểm soát: 38P1- xxxx, đã qua sử dụng.

Vật chứng nêu trên, cơ quan chức năng đã trả lại cho chủ sở hữu.

Tại bản cáo trạng số 21/CT-VKS-HS, ngày 23 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh H truy tố bị cáo Nguyễn Phi H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù.

Vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để:

- Tịch thu tiêu hủy 13,5781 gam Methamphetamine (đã lấy mẫu giám định 0,8015 gam), còn lại 12,7766 gam cùng toàn bộ vỏ bao gói được cho vào 01 phong bì thư, dán kín, trên mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và Nguyễn Phi H; 01 vỏ hộp thuốc lá hiệu Thăng Long, màu xanh; 01 đoạn ống bằng kim loại, màu trắng, dài 10,5cm.

- Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số vùng cao thuộc xã đặc biệt khó khăn xã 135 của CP nên đề nghị Hội đồng xét xử Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

* Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Phi H là ông Trần Thanh M cho rằng: Bị cáo Nguyễn Phi H là người dân tộc thiểu số, sinh ra và lớn lên ở miền quê nghèo có điều kiện vô vàn khó khăn; mẹ mất sớm, mỗi mình bố chật vật nuôi hai anh em bị cáo; trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, viện kiểm sát, bị cáo đã nhận ra hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên bị cáo rất ăn năn, hối hận, luôn luôn thành khẩn khai báo, tích cực phối hợp với cơ quan chức năng sớm làm sáng tỏ vụ án mong nhận được sự khoan hồng của pháp luật; hơn nữa, gia đình bị cáo có hoàn cảnh éo le, mẹ bị cáo mất sớm, bố không có việc làm lại thường xuyên đau ốm, có em nhỏ nên bị cáo là lao động chính trong gia đình. Từ những phân tích trên kính mong Hội đồng xét xử cân nhắc và xem xét áp dụng điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để có một quyết định thấu tình đạt lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật mang tính chất giáo dục, răn đe và có thể giúp cho bị cáo sớm trở về với cộng đồng, giúp bị cáo sửa chữa những sai lầm của mình, hoàn thiện bản thân, giúp gia đình vượt qua các khó khăn trong cuộc sống.

Bị cáo Nguyễn Phi H thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Viện kiểm sát nhân dân huyện H quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Phi H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ; phù hợp với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Vì vậy có đủ cơ sở khẳng định Nguyễn Phi H mua 13,5781 gam Methamphetamine về cất dấu nhằm mục đích để sử dụng đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự. Việc truy tố và xét xử theo tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, không oan sai.

[3] Vụ án thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II.C, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ, khi con người sử dụng sẽ đe dọa nghiêm trọng đến sức khoẻ và sự phát triển lành mạnh của nòi giống con người thế nhưng để thỏa mãn cơn nghiện cho bản thân, bị cáo bất chấp pháp luật tàng trữ số lượng ma túy đã nói trên. Hành vi đó thể hiện sự táo bạo và liều lĩnh, làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội và gây hoang mang lo lắng cho mọi người. Bị cáo tàng trữ ma túy với số lượng 13,5781gam Methamphetamine nên phải chịu tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử cần xét xử bị cáo một mức án nghiêm và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ông nội được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; bị cáo là người dân tộc thiểu số vùng cao thuộc xã đặc biệt khó khăn xã 135 của chính phủ; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn mẹ mất sớm, em nhỏ, bố ốm đau bệnh tật, không nghề nghiệp, không nhà cửa nên bị cáo trở thành trụ cột gia đình, là lao động chính trong gia đình có xác nhận của UBND xã C, huyện Q, tỉnh N nên cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần.

[6] Đối với người đàn ông bán ma túy cho H, do H không biết nhân thân, lai lịch, trong quá trình điều tra cơ quan chức năng không có căn cứ để xử lý nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên miễn phạt tiền cho bị cáo.

[8] Về vật chứng vụ án: 13,5781 gam Methamphetamine (đã lấy mẫu giám định 0,8015 gam), còn lại 12,7766 gam cùng toàn bộ vỏ bao gói được cho vào 01 phong bì thư, dán kín, trên mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và Nguyễn Phi H; 01 vỏ hộp thuốc lá hiệu Thăng Long, màu xanh; 01 đoạn ống bằng kim loại, màu trắng, dài 10,5cm là các vật nhà nước cấm lưu hành, vật không còn giá trị nên cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu, tiêu hủy.

- 01 xe mô tô hiệu Honda Wave anpha, màu đỏ, biển kiểm soát: 38P1- xxxx, đã qua sử dụng là tài sản thuộc quyền sở hữu của anh Nguyễn Trung T1. Việc bị cáo sử dụng chiếc xe nói trên để thực hiện hành vi phạm tội anh T1 không biết, quá trình điều tra cơ quan chức năng đã trả lại cho chủ sở hữu nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[9] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số vùng cao thuộc xã đặc biệt khó khăn xã 135 của Chính phủ nên bị cáo được miễn án phí theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, điểm đ khoản 1 Điều 32, khoản 1 Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, các điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, 333, 336, 337 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 21, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phi H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Phi H 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 19/01/2021).

- Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy:

+ 12,7766 gam Methamphetamine được đựng trong 01 phong bì thư được dán kín, trên mép dán có chữ ký của các thành viên tham gia niêm phong và đối tượng Nguyễn Phi H, bên trong đựng toàn bộ vỏ bao gói.

+ 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, màu xanh; 01 đoạn ống bằng kim loại màu trắng dài 10,5cm.

(Đặc điểm vật chứng nói trên như biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/4/2021).

- Về án phí: Miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Phi Hùng.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Phi H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Trung T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (hồng phiến) số 22/2021/HS-ST

Số hiệu:22/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;