Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Heroine) số 92/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 92/2021/HS-ST NGÀY 08/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm C khai vụ án hình sự thụ lý số 95/2021/TLST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn C, sinh năm 1980 tại Hà Nam; nơi cư trú: Tiểu khu Tháp, thị trấn Kiện Khê, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Vũ Thị V; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 01/7/2010, Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (chấp hành xong bản án ngày ngày 01/5/2012); ngày 24/11/2015, Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm xử phạt 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (chấp hành xong bản án ngày 12/02/2018); Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 10/4/2021và chuyển tạm giam từ ngày 16/4/2021 đến nay tại Trại tạm giam C an tỉnh Hà Nam; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Đại V - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Nam; có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Anh Nguyễn Minh X, sinh năm 1982; Trú tại: Tiểu khu T, thị trấn K, huyện T, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Anh Nguyễn Minh S, sinh năm 1980; Trú tại: Tiểu khu T, thị trấn K, huyện T, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

* Người làm chứng: Ông Hoàng Văn D, sinh năm 1968; vắng mặt

* Người chứng kiến: Anh Phạm Văn A, sinh năm 1979; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 10/4/2021, Nguyễn Văn C điều khiển xe mô tô BKS:

90F8-xxxx đi từ nhà đến khu vực đường Đinh Công Tráng thuộc phường Châu Sơn, thành phố Phủ Lý mục đích mua ma túy về sử dụng thì gặp bạn nghiện mới quen tên Th (không rõ nhân thân, lai lịch), C hỏi Th mua ma túy, Th đồng ý. C lấy ra số tiền 200.000đ đưa cho Th, Th cầm tiền rồi đưa cho C 01 gói giấy màu trắng, C biết bên trong gói giấy màu trắng có ma túy nên không mở ra kiểm tra mà cầm trong lòng bàn tay phải rồi điều khiển xe mô tô đi tìm chỗ để sử dụng. Khi C đi đến đoạn đường thuộc tổ dân phố Nam Sơn, phường Châu Sơn, thành phố Phủ Lý thì bị lực lượng Công an phường Châu Sơn phát hiện có nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra, C đã tự giác giao nộp cho lực lượng Công an 01 gói giấy màu trắng, kiểm tra bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, C khai nhận đó là gói ma túy của C cất giữ mục đích để sử dụng. Lực lượng Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục (niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01); 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave RS, BKS: 90F8-xxxx; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mastel.

Tại bản kết luận giám định số 65/PC09-MT ngày 14/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Hà Nam kết luận: Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,169g, loại: Heroine.

Ngày 14/4/2021, Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Nguyễn Văn C. Quá trình khám xét thu giữ:

01 căn cước công dân số 03508000xxxx mang tên Nguyễn Văn C.

Tại bản cáo trạng số 109/CT-VKS-PL ngày 17/6/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Nguyễn Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C từ 24 đến 30 tháng tù; Bị cáo phạm tội không có mục đích trục lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng toàn bộ bao gói; trả lại bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mastel và 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Văn C.

+ Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Người bào chữa cho bị cáo có quan điểm: Nhất trí với tội danh và khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo như: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo, bố mẹ già yếu chỉ làm nông nghiệp có xác nhận của chính quyền địa phương, lượng ma túy không nhiều, bị cáo khai có tham gia quân đội nên đề nghị áp dụng mức hình phạt cho bị cáo 18 (mười tám) tháng tù để bị cáo yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo nhất trí với lời bào chữa của người bào chữa và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ là hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và người chứng kiến vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn C đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của ngườicó quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ chứng cứ buộc tội kết luận: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 10/4/2021, tại tổ dân phố N, phường C, thành phố Phủ Lý, Nguyễn Văn C đang cất giữ trái phép 0,169 gam chất ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Châu Sơn, thành phố Phủ Lý phát hiện bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, có hai tiền án về tội phạm ma túy (đã được xóa án tích). Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật nên khi lượng hình Hội đồng xử sẽ xem xét để áp dụng mức hình phạt cho phù hợp.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo có xác nhận của chính quyền địa phương nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo khai có thời gian phục vụ quân đội nhưng không có tài liệu chứng cứ xuất trình nên không có căn cứ để chấp nhận.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

- Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả C cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm chung trong cộng đồng.

- Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng gì, không có công việc và thu nhập ổn định, bản thân thuộc hộ nghèo mục đích tàng trữ ma túy để sử dụng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo đề xuất của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa là đúng pháp luật.

[6] Về tình tiết khác của vụ án: Đối với người đàn ông tên Th, C khai là người đã bán ma túy cho C. Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Công an phường Châu Sơn, thành phố Phủ Lý tiến hành xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của người này. Ngoài lời khai của C không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên chưa đủ căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[7] Về xử lý vật chứng và các tài sản đã thu giữ:

- Đối với số ma túy loại Heroine được hoàn trả sau giám định cùng toàn bộ bao gói là vật chứng của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mastel và 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Văn C, là tài sản và giấy tờ tùy thân hợp pháp của bị cáo không liên quan đến vụ án nên cần trả lại bị cáo.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave RS, BKS: 90F8-xxxx thu giữ của bị cáo. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Minh X, ngày 10/4/2021 anh X cho anh trai là Nguyễn Minh S mượn để đưa con đi học, sau đó anh S cho bị cáo mượn để sử dụng. Anh X và anh S đều không biết bị cáo đã sử dụng chiếc xe này để thực hiện hành vi phạm tội. Ngày 03/6/2021, Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 67, trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh Nguyễn Minh X là đúng pháp luật. [8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38;

Điều 47; Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ Luật Phí và Lệ phí của Quốc hội.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 33 (ba mươi ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/4/2021.

[3] Xử lý vật chứng và các tài sản đã thu giữ:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong dán kín mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01” số 65/PC09MT của Phòng kỹ thuật hình sự C an tỉnh Hà Nam.

- Trả lại bị cáo Nguyễn Văn C: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mastel và 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Văn C.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 18/6/2021 giữa Cơ quan CSĐT C an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý).

[4] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Văn C phải nộp: 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự;

thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Heroine) số 92/2021/HS-ST

Số hiệu:92/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;