Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Heroine) số 78/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 78/2020/HS-ST NGÀY 22/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 7 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 94/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Khun Văn M, tên gọi khác: không;

Sinh ngày 27/8/1987 tại xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An;

Nơi cư trú: bản N, xã CL, huyện KS, Nghệ An;

Nghề nghiệp: làm rẫy; trình độ học vấn: lớp 04/12; dân tộc: Thái; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Khun Văn B và bà La Thị U; có vợ là Lương Thị H 02 con; tiền án: có 01 tiền án (bản án số 27/2013/HSST ngày 24/6/2013 của Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xử phạt 7 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong án phạt tù ngày 31/01/2019), tiền sự: không; bị bắt từ ngày 06/5/2020 đến nay, hiện đang tạm giam. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Phan Thị T, Trợ giúp viên pháp lý, công tác tại Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Lương Văn Q, sinh năm 1992; Địa chỉ: bản N, xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Theo cáo trạng số 91/CT-VKS-HS ngày 23/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An thì bị cáo Khun Văn M đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và bị truy tố theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Khun Văn M đã thừa nhận có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với các tình tiết đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu, cụ thể là: Vào khoảng 17 giờ, ngày 05/5/2020, Khun Văn M đi nhờ xe máy của một người không quen biết qua đường từ bản N, xã CL xuống đến khu vực bản T, xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An thì xuống xe, đi bộ dọc đường Quốc lộ 7A được một đoạn thì Khun Văn M gặp một người đàn ông dân tộc Thái không quen biết đang đứng cạnh đường, Khun Văn M hỏi người đàn ông đó “có tí không” (ý là có heroine bán không), người đàn ông đó trả lời là “”, Khun Văn M đưa 300.000 đồng cho người đàn ông đó, người đàn ông cầm tiền đi vào trong rừng một lúc rồi quay lại đưa cho Khun Văn M 10 (mười) gói heroine, được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ. Mua được heroine, Khun Văn M cất giấu vào trong túi quần bên phải đang mặc và đi bộ về nhà, trên đường về Khun Văn M lấy 02 (hai) gói heroine ra sử dụng hết, còn lại 08 (tám) gói heroine Khun Văn M cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc rồi về nhà ngủ. Đến khảng 09 giờ 30 phút, ngày 06/5/2020, Khun Văn M đi bộ từ nhà ra dọc đường Quốc lộ 7A thuộc bản N, xã CL, huyện KS chơi thì bị tổ công tác Công an huyện Kỳ Sơn kiểm tra hành chính, phát hiện và bắt quả tang, thu giữ của Khun Văn M 08 (tám) gói chất bột màu trắng, được gói trong giấy trắng có dòng kẻ (nghi là heroine). Bị cáo thừa nhận đó là heroine bị cáo mua về cất dấu để sử dụng dần.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại ngày 06/5/2020 đã xác định: Chất màu trắng (nghi là heroine) thu giữ của Khun Văn M có khối lượng 0,1 (không phẩy một gam). Hội đồng niêm phong đã tiến hành trích mẫu để gửi đi giám định.

Tại kết luận giám định số 606/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 09/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Nghệ An đã kết luận: Mẫu chất màu trắng thu giữ của Khun Văn M gửi đến giám định là ma túy (heroine).

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Khun Văn M mức án từ 13 (Mười ba) đến 17 (Mười bảy) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định.

Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị cáo nhận tội và mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến gì hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi vi phạm của bị cáo: Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo Khun Văn M đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được trong quá trình điều tra có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung bản Cáo trạng truy tố, như vậy đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 06/5/2020 tại Quốc lộ 7A đoạn qua bản N, xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An, bị cáo Khun Văn M bị bắt quả tang khi đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,1 (Không phẩy một) gam heroine nhằm mục đích sử dụng. Vì vậy, hành vi đó của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thấy rằng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các loại chất gây nghiện. Khi phạm tội bị cáo cũng nhận thức ma túy là chất Nhà nước cấm, vì ma túy gây tác hại xấu đến kinh tế - xã hội, sức khỏe con người và cũng là mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội khác nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để tàng trữ trái phép, hành vi đó đã làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương, gây hoang mang bất bình trong quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo đã từng bị kết án về tội phạm ma túy, chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy lần bị kết trước làm bài học để tự giáo dục bản thân mà lại tiếp tục phạm tội, chứng tỏ bị cáo có ý thức coi thường pháp luật, lần phạm tội này bị cáo thuộc trường hợp ‘tái phạm” và phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Do đó cần xử phạt bị cáo Khun Văn M mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung là cần thiết. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng thấy, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Hình phạt bổ sung: Thấy rằng bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[5] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Khun Văn M và người đàn ông đã cho Khun Văn M đi nhờ xe đi tìm mua ma túy. Quá trình điều tra chưa xác định được lai lịch, danh tính nên chưa có căn cứ để chứng minh, Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có kết quả sẽ được xử lý.

[6] Vật chứng vụ án: Số ma túy heroine thu giữ của bị cáo sau khi trích mẫu để gửi đi giám định thì số còn lại có khối lượng 0,05g (không phẩy năm gam). Đây là vật chứng Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên phải tịch thu để tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Về kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Khun Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Khun Văn M 17 (Mười bảy) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt (ngày 06/5/2020).

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu để tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư bưu điện được dán kín, ở mép dán có đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong và Khun Văn M, bên trong chứa 0,05 (không phẩy không năm) gam ma túy heroine thu giữ của bị cáo. Vật chứng đang do Chi cục thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng hồi 16 giờ 25 phút, ngày 25/6/2020.

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Khun Văn M phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tuyên bố bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 22/7/2020)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Heroine) số 78/2020/HS-ST

Số hiệu:78/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;