Bản án về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy số 128/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 128/2022/HS-ST 08/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 118/2022/TLST- HS ngày 13 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 121/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Ngọc Hoài V, tên gọi khác: B, sinh ngày 07/02/1992; tại tỉnh Lâm Đồng; nơi đăng ký thường trú: Tổ 12, Phường 1, Tp. B; nơi cư trú khi bị bắt: Số 268B đường 1/5, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Ngọc B, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1968; vợ: Nguyễn Thị Thúy N, sinh năm 1997 (đã ly hôn), con: có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2013 và con nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 25/7/2009 bị Công an phường B, thành phố B xử phạt vi phạm hành chính số tiền 500.000đ về hành vi gây rối trật tự công cộng theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 588/QĐ-XPVPHC. Đã nộp phạt ngày 25/8/2009.

Đã được xóa.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Tp. B từ ngày 19/4/2022 cho đến nay. Có mặt.

2. Họ và tên: Trương Thị Quế H, tên gọi khác: Không, sinh ngày 20/5/1997; tại tỉnh Lâm Đồng; nơi đăng ký thường trú: Số 59 H, Phường 1, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng và nơi cư trú khi bị bắt: Phòng 101 Khách sạn C, số 101 T, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 08/12; nghề nghiệp: Không; con ông Trương Minh N, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1977; Chồng: Không có, con: có 01 con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 27/4/2022, đến ngày 11/7/2022 bị thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào các ngày 19/4/2022 và 11/7/2022 Nguyễn Ngọc Hoài V và Trương Thị Quế H đã thực hiện hành vi phạm tội mua bán trái phép chất ma túy và Tàng trữ trái phép chất ma túy như sau:

Vào lúc 16 giờ 00 phút ngày 19/4/2022, Đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an thành phố B phối hợp với Công an phường L, thành phố B tiến hành kiểm tra xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển số 49K1-xxxxx do Nguyễn Ngọc Hoài V đang điều khiển chở theo Nguyễn Ngọc Quỳnh N, sinh năm 2004, nơi thường trú: tổ 1, phường B, thành phố B tại khu vực trước số nhà 266 đường T, phường L, thành phố B do có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Quá trình kiểm tra phát hiện tại túi quần trước bên trái của V đang mặc có 01 hộp nhựa được quấn băng keo đen có kích thước 03x 08x 1,5cm, bên trong có 03 gói nylon hàn kín (02 gói có kích thước là (01 x 2,5)cm, 01 gói có kích thước (01x 3,5)cm bên trong đều chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy, phát hiện tại túi áo khoác trước bên trái của V đang mặc có 01 gói nylon màu trắng được hàn kín, có kích thước (01 x 03)cm bên trong chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy. V khai nhận đây là ma túy đang mang theo với mục đích bán lại cho người khác. Cơ quan CSĐT Công an thành phố B đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Ngọc Hoài V, đồng thời thu giữ và niêm phong tang vật theo quy định của pháp luật.

Vào hồi 16 giờ 15 phút ngày 19/4/2022 Đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an thành phố B phối hợp cùng với Công an phường 1, thành phố B tiến hành kiểm tra xe mô tô biển số 49N6- xxxx do Trương Thị Quế H điều khiển tại trước số nhà 296 đường T, phường 1, thành phố B. Quá trình kiểm tra phát hiện trong lòng bàn tay trái của H cầm 01 gói nylon màu trắng được hàn kín, có kích thước (01cm x 03cm) chứa chất tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy, H khai nhận là ma túy H mua về để sử dụng. Cơ quan CSĐT Công an thành phố B đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với H đồng thời thu giữ niêm phong tang vật theo quy định của pháp luật.

Cơ quan CSĐT Công an thành phố B tiếp tục khám xét nơi ở của H tại phòng 101 khách sạn C phường L, thành phố B phát hiện và thu giữ trong túi áo khoác màu đỏ của H đang treo trên tường trong phòng có 01 gói nylon màu trắng có rãnh khép kín vạch kẻ ngang màu xanh có kích thước (1,5 x 3,5)cm và tại hộc tủ gỗ trong phòng có 01 gói nylon màu trắng đựợc hàn kín có kích thước (1,5 x 3,5)cm. H khai nhận đây là ma túy H tàng trữ để sử dụng Cơ quan CSĐT Công an thành phố B đã thu giữ và niêm phong tang vật theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra đã xác định được: Vào đêm ngày 17/4/2022 Nguyễn Ngọc Hoài V đi đến phòng 101 khách sạn C do Trương Thị Quế H đang thuê để gặp H. Tại đây, H đưa trước cho V số tiền 400.000đ để mua ma túy, V cầm số tiền này của H gộp cùng với số tiền 1.100.000đ của V rồi đi đến khu vực Tân Hà, phường L, thành phố B mua 01 gói ma túy đá với giá 1.500.000đ của một người tên B (chưa rõ nhân thân, lai lịch). Sau đó V mang về nhà thuê tại địa chỉ 268B đường 1/5, phường L, Tp. B và chia ma túy ra thành 07 gói nylon gồm: 02 gói nilon màu trắng được hàn kín kích thước 1,5 x 2,5cm/gói; 01 gói nilon màu trắng được hàn kín, kích thước 01cm x 3,5cm; 02 gói nilon màu trắng hàn kín có kích thước 01 x 03cm /gói; 01 gói nilon màu trắng, có rãnh khép kín vạch kẻ ngang màu xanh có kích thước 1,5cm x 3,5cm và 01 gói nilon màu trắng được hàn kín có kích thước 1,5x 3,5cm nhằm mục đích bán lại cho người khác để thu lợi nhuận. Sau đó V đã bán cho Trương Thị Quế H 03 gói ma túy, cụ thể như sau:

Vào chiều ngày 18/4/2022 Trương Thị Quế H đi đến phòng trọ của V ở địa chỉ: Số 268B đường 1/5, phường B, thành phố B, tại đây V đã giao cho H 01 gói ma túy đá có rãnh khép kín, kích thước (1,5 x 3,5)cm như đã thỏa thuận trước đó. Sau khi nhận ma túy, H đưa tiếp cho V số tiền 400.000đ để lần sau H mua ma túy V sẽ cấn trừ nợ vào số tiền này, V đồng ý và nhận số tiền 400.000đ của H. Đến 23 giờ 30 phút cùng ngày V đi đến phòng số 101 khách sạn C do H thuê và giao cho H 02 gói ma túy đá như thỏa thuận trước đó. Tổng cộng Nguyễn Ngọc Hoài V đã bán cho Trương Thị Quế H 03 gói ma túy với giá 700.000đ và trả lại cho H 100.000đ. Sau khi mua ma túy từ V, H mang về cất giấu tại phòng 101 khách sạn C và mang theo trên người thì bị bắt quả tang.

Còn lại 04 gói ma túy thì V dùng một hộp nhựa quấn băng keo màu đen, bên ngoài.

Đến khoảng 16 giờ 00 phút chiều ngày 19/4/2022 V mang theo 04 gói nylon chứa ma túy với mục đích bán cho người khác thì bị Công an Tp. B bắt quả tang và thu giữ niêm phong tang vật theo quy định của pháp luật.

Ngoài hành vi phạm tội nêu trên thì Trương Thị Quế H lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội như sau: Vào khoảng 17 giờ 15 phút ngày 11/7/2022, Đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an thành phố Bảo Lộc phối hợp với Công an phường B, thành phố B kiểm tra tầng hầm của căn nhà số 59 đường 1/5, phường B, Tp. B do Trương Thị Quế H đang thuê để ở. Tại thời điểm kiểm tra gồm có: Trương Thị Quế H, Nguyễn Ngọc Quỳnh N, sinh năm 2004, nơi thường trú: tổ 1, phường B, thành phố B và Lê Di T, sinh năm 1983, nơi cư trú: tổ 5, phường L, Tp. B. Quá trình kiểm tra, phát hiện Trương Thị Quế H đã tự nguyện giao nộp 04 gói nylon đều co kích thước (01 x 3,3cm) hàn kín hai đầu có chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy để ở trong 01 nắp nhựa trên bàn gỗ trong phòng. Cơ quan CSĐT Công an thành phố B đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với H đồng thời thu giữ niêm phong tang vật theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra xác định được: Vào ngày 10/7/2022 H đi đến khu vực Khu tái định cư thuộc phường L, thành phố Bảo Lộc mua 04 gói nylon chứa ma túy của một người phụ nữ khoảng 40 tuổi (chưa rõ nhân thân, lai lịch) với số tiền 800.000 đồng, sau đó H mang về phòng trọ cất giấu nhằm mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Việc H tàng trữ ma túy thì Lê Di T và Nguyễn Ngọc Quỳnh N không biết và cũng không liên quan.

Theo Kết luận giám định số 422/KL-KTHS ngày 25/4/2022 của Phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng, kết luận: 03 gói nylon thu giữ trên người của Trương Thị Quế H và tại phòng 101 khách sạn C do Trương Thị Quế H thuê vào ngày 19/4/2022 là ma túy loại metaphetamine, có tổng khối lượng 1,223 gam.

Theo Kết luận giám định số 423/KL-KTHS ngày 25/4/2022 của Phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng: 04 gói nylon thu giữ trên người của Nguyễn Ngọc Hoài V vào ngày 19/4/2022 là ma túy loại metaphetamine, có tổng khối lượng 0,6494gam.

Theo Kết luận giám định số 783/KL-KTHS ngày 15/7/2022 của Phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng, kết luận: 04 gói nylon thu giữ của Trương Thị Quế H vào ngày 11/7/2022 tại tầng hầm căn nhà số 59, đường 1/5, phường B là ma túy loại metaphetamine có tổng khối lượng là 0,4876 gam.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT: 323 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Bản Cáo trạng số 127/CT-VKSBL, ngày 04 tháng 10 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc Hoài V về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự và Trương Thị Quế H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Hoài V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và Trương Thị Quế H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Hoài V từ 08 năm đến 09 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung.

- Áp dụng điểm c khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 249; Điều 38 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trương Thị Quế H từ 06 năm đến 07 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra, cơ quan Công an thành phố B, tỉnh Lâm Đồng đã thu giữ:

* Đối với vật chứng, chứng minh tội phạm, không còn giá trị sử dụng, tịch thu tiêu hủy, gồm:

+ 02 phong bì niêm phong số 422/2022-PC09; 02 phong bì niêm phong số 423- 2022/PC09; 02 phong bì niêm phong số 783/2022-PC09;

+ 01 nắp nhựa màu trắng, đường kính 5,6cm; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy màu trắng gồm: 01 chai nhựa, 01 ống nhựa và 01 nỏ thủy tinh; 01 hộp nhựa cuốn băng keo đen kích thước (3 x 8 x 1,5)cm; 01 miếng băng keo màu đen kích thước 1,5cm x 6,5cm; 01 miếng băng keo màu đen kích thước 1,5cm x 20cm; 01 cái kéo kim loại dài 14cm;

* Đối với 01 áo khoác trắng, hiệu Nike; 01 quần Jean màu xám có túi trước bên phải và túi trước bên trái và 01 áo khoác đỏ nhãn hiệu H&H. Đây là tài sản riêng của bị cáo V và bị cáo H không liên đến việc phạm tội. Tại phiên tòa các bị cáo đề nghị tiêu hủy nên ghi nhận.

* Đối với số tiền 400.000đ thu giữ của bị cáo V. Đây là tiền do phạm tội mà có nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

+ Bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về bản Cáo trạng và không có tranh luận, đối đáp với Kiểm sát viên.

+ Bị cáo nói lời sau cùng: Nhận thức được hành vi phạm tội là vi phạm pháp luật, là sai trái, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về đoàn tụ gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên thuộc Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi cấu thành tội phạm: Hội đồng xét xử nhận thấy, tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Ngọc Hoài V và Trương Thị Quế H đã khai và thừa nhận hành vi phạm tội phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra; nội dung bản Cáo trạng đã truy tố; luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa; nội dung bản Kết luận điều tra; nội dung Kết luận giám định; biên bản bắt người phạm tội quả tang; lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ chứng minh đã được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định và đã được kiểm tra tại phiên tòa.

Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Vào ngày 18/4/2022 và ngày 19/4/2022, Nguyễn Ngọc Hoài V đã hai lần bán trái phép chất ma túy cho Trương Thị Quế H, có tổng khối lượng là 1,223 gam, loại Methamphetamin. Ngày 19/4/2022 V tiếp tục tàng trữ trái phép chất ma túy, có khối lượng 0,6494g, loại metaphetamine nhằm mục đích để bán lại cho người khác. Tổng khối lượng ma túy là 1,8724gam.

Vào ngày 19/4/2022 Trương Thị Quế H đã bị cơ quan công an thành phố B lập biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy 1,223g, loại metaphetamine. Ngày 11/7/2022, tại số nhà số 59 đường 1/5, phường B, Tp. B H đã tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng 0,4876g, loại metaphetamine cùng với mục đích để sử dụng. Tổng khối lượng ma túy là 1,7106gam.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc Hoài V đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo Trương Thị Quế H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất và mức độ của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến khách thể là chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về chất ma túy, trực tiếp là hoạt động tàng trữ và mua bán chất ma túy được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách Nệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ và mua bán trái phép chất ma tuý bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì thái độ xem thường pháp luật, cũng như nhằm mục đích thoả mãn cho nhu cầu của bản thân nên các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội đến cùng. Các bị cáo thực hiện tội rất phạm nghiêm trọng, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về nhân thân: Bị cáo V có nhân thân xấu, bị cáo H có nhân thân tốt.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách Nệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách Nệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách Nệm hình sự: Các bị cáo không có.

[7] Căn cứ vào qui định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình giảm nhẹ và tăng nặng trách Nệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy, cần cách ly khỏi xã hội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.

[8] Phạt bổ sung: Miễn phạt bổ sung.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý như sau:

* Đối với vật chứng, chứng minh tội phạm, không còn giá trị sử dụng, tịch thu tiêu hủy, gồm:

+ 02 phong bì niêm phong số 422/2022-PC09; 02 phong bì niêm phong số 423- 2022/PC09; 02 phong bì niêm phong số 783/2022-PC09;

+ 01 nắp nhựa màu trắng, đường kính 5,6cm; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy màu trắng gồm: 01 chai nhựa, 01 ống nhựa và 01 nỏ thủy tinh; 01 hộp nhựa cuốn băng keo đen kích thước (3 x 8 x 1,5)cm; 01 miếng băng keo màu đen kích thước 1,5cm x 6,5cm; 01 miếng băng keo màu đen kích thước 1,5cm x 20cm; 01 cái kéo kim loại dài 14cm;

* Đối với 01 áo khoác trắng, hiệu Nike; 01 quần Jean màu xám có túi trước bên phải và túi trước bên trái và 01 áo khoác đỏ nhãn hiệu H&H. Đây là tài sản riêng của bị cáo V và bị cáo H không liên đến việc phạm tội. Tại phiên tòa các bị cáo đề nghị tiêu hủy nên ghi nhận.

* Đối với số tiền 400.000đ thu giữ của bị cáo V. Đây là tiền do phạm tội mà có nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[10] Các vấn đề khác:

Đối với cháu Nguyễn Ngọc Quỳnh N: Tại thời điểm lập biên bản bắt người quả tang đối với Nguyễn Ngọc Hoài V và Trương Thị Quế H thì có mặt cháu N. Quá trình điều tra xác định, cháu N không liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của V và tàng trữu trái phép chất ma túy của H. Do đó Cơ quan CSĐT Công an thành phố B không xem xét trách Nệm hình sự.

Đối với Lê Di T: Tại thời điểm lập biên bản bắt người quả tang đối với Trương Thị Quế H thì cũng có Lê Di T. Quá trình điều tra xác định Lê Di T không biết, không liên quan gì đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Trương Thị Quế H. Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Lê Di T hiện đã bị khởi tố, truy tố và xét xử trong vụ án hình sự khác. Do đó Cơ quan CSĐT Công an thành phố B không xem xét trách Nệm hình sự của Lê Di T trong vụ án của Trương Thị Quế H.

Đối với bà Võ Thị Thanh T là chủ khách sạn C và bà Đặng Thị Thúy Klà chủ sở hữu căn nhà tại địa chỉ số 59 đường 1/5, phường B, thành phố B do Trương Thị Quế H thuê. Quá trình điều tra xác định bà Thảo và bà Kiều không biết việc Trương Thị Quế H tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố B không xem xét trách Nệm hình sự.

Đối với người tên B đã bán ma túy cho Nguyễn Ngọc Hoài V vào ngày 18/4/2022 và người phụ nữ đã bán ma túy cho Trương Thị Quế H vào ngày 10/7/2022. Quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố B tách ra để tiếp tục xác minh, làm rõ khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

[11] Xét ý kiến trình bày luận tội và quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng tại phiên tòa là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đã được kiểm tra tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

[12] Về chi phí tố tụng: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Ngọc Hoài V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và Trương Thị Quế H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Hoài V , tên gọc khác: B 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/4/2022.

2.2. Áp dụng điểm c khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 249; Điều 38 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trương Thị Quế H 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/7/2022.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 400.000đ (bốn trăm ngàn đồng).

- Tịch thu tiêu huỷ gồm: 02 phong bì niêm phong số 422/2022-PC09; 02 phong bì niêm phong số 423/2022-PC09; 02 phong bì niêm phong số 783/2022-PC09; 01 nắp nhựa màu trắng, đường kính 5,6cm; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy màu trắng gồm: 01 chai nhựa, 01 ống nhựa và 01 nỏ thủy tinh; 01 hộp nhựa cuốn băng keo đen kích thước (3 x 8 x 1,5)cm; 01 miếng băng keo màu đen kích thước 1,5cm x 6,5cm;

01 miếng băng keo màu đen kích thước 1,5cm x 20cm; 01 cái kéo kim loại dài 14cm;

01 áo khoác trắng, hiệu Nike; 01 quần Jean màu xám có túi trước bên bên và túi trước bên trái và 01 áo khoác đỏ nhãn hiệu H&H.

Theo biên bản giao, nhận vật chứng, tài sản ngày 11/10/2022. Tiền theo Ủy Nệm chi số 105 ngày 13/10/2022 giữa cơ quan Công an thành phố B và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về ..., án phí và lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Nguyễn Ngọc Hoài V và Trương Thị Quế H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy số 128/2022/HS-ST

Số hiệu:128/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;