TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 53/2022/HS-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM
Ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Kinh Môn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 53/2022/TLST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:
Họ và tên: Đặng Văn Th, sinh năm 1983, tại Kinh Môn, Hải Dương; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn K, xã T, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn B và bà Nguyễn Thị Kh; gia đình bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con thứ hai; có vợ Nguyễn Thị T và 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/3/2022 đến ngày 10/3/2022, chuyển áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay (Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 12 ngày 20/5/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Kinh Môn). Bị cáo có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1985; địa chỉ: Thôn K, xã T, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Có mặt.
- Người làm chứng:
Ông Ngô Văn Thiệp, sinh năm 1963. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng cuối tháng 02/2022, Đặng Văn Th trong khi ăn sáng có gặp một người đàn ông không quen biết. Th có hỏi mua pháo hoa nổ của người này, mục đích để đốt. Hai người thống nhất mua 06 giàn pháo nổ, với giá 1.800.000 đồng, hẹn chiều tối ngày 01/3/2022 sẽ giao nhận pháo tại khu vực bãi gửi xe đền Cao thuộc phường An Sinh, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
Khoảng 18 giờ ngày 01/3/2022, Đặng Văn Th điều khiển xe mô tô đi đến khu vực bãi gửi xe đền Cao. Tại đây Th gặp người đàn ông không rõ lai lịch đem theo 01 bao tải rứa, mở ra cho Th xem thấy bên trong có 06 hộp pháo nổ loại pháo giàn, có in chữ nước ngoài. Th đồng ý mua và đưa người đàn ông này số tiền 1.800.000 đồng rồi bê bao tải rứa đựng pháo để trên giá để hàng giữa thân xe mô tô của Th rồi điều khiển xe đi về nhà. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, khi Th đi đến khu vực cổng Công ty SK9 thuộc khu dân cư Lĩnh Đông, phường Phạm Thái, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương thì bị Tổ công tác thuộc Phòng cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Hải Dương phối hợp với Công an phường Phạm Thái phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ trên giá để hàng giữa thân xe mô tô biển kiểm soát 34 D1-121.80 của Th đang điều khiển 01 bao dứa màu xanh trắng bên trong có đựng 06 hộp hình chữ nhật kích thước khoảng (15 cm x15 cm x 15 cm), trên các hộp được dán túi nilon màu đỏ, vàng có in chữ nước ngoài (được niêm phong trong 01 hộp bìa cát tông đóng dấu của Công an phường Phạm Thái); thu của Thành 01 xe mô tô biển kiểm soát 34D1-121.80 (cùng giấy đăng ký xe mô tô) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A10 trong kèm sim. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng.
Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hải Dương tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở Đặng Văn Th, kết quả: không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.
Tại Kết luận giám định số 1250/C09-P2 ngày 02/3/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ công an kết luận: 06 khối hộp, vỏ bọc giấy màu có in hoa văn và chữ nước ngoài, bên trong mỗi hộp gồm 36 vật hình trụ, vỏ giấy được liên kết với nhau được niêm phong trong 01 hộp bìa cát tông đóng dấu của Công an phường Phạm Thái, gửi giám định đều là pháo nổ (pháo hoa nổ), có tổng khối lượng 10 kg. Mẫu vật đã sử dụng hết trong quá trình giám định.
Về vật chứng:
Đối với số pháo và bao tải rứa thu giữ, Cơ quan giám định đã sử dụng để giám định hết, không hoàn lại.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A10 trong kèm sim, quá trình điều tra xác định là của Đặng Văn Th không liên quan đến việc phạm tội, ngày 14/3/2022, Cơ quan điều tra đã trả lại Th.
Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 34D1-121.80, tài liệu điều tra xác định: đăng ký mang tên Đặng Văn Th do Công an huyện Kinh Môn cấp ngày 23/4/2013; là tài sản thuộc sở hữu chung của Th và vợ là chị Nguyễn Thị Thuý, sinh năm 1985.
Tại bản Cáo trạng số 51/CT-VKS ngày 17/5/2022, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương truy tố Đặng Văn Th về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự (sau đây gọi tắt là: BLHS).
Tại phiên toà:
- Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trình bày quan điểm giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả, điều kiện, nguyên nhân phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử (sau đây gọi tắt: HĐXX) xử:
+ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Văn Th phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.
+ Về hình phạt chính:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Khoản 1, 2, 5 Điều 65 BLHS. Xử phạt Đặng Văn Th từ 9 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 đến 24 tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao Đặng Văn Th cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
+ Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.
+ Về vật chứng: Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước ½ giá trị chiếc xe mô tô BKS 34D1-121.80, còn ½ giá trị chiếc xe trả chị Nguyễn Thị T.
+ Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326 về án phí, lệ phí Tòa án.
- Bị cáo Th khẩn khai báo, nhất trí với tội danh mà đại diện VKS đã luận tội và đề nghị HĐXX chiếu cố giảm nhẹ hình phạt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Không có ý kiến, đề nghị gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng: HĐXX xác định hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp.
[2] Về chứng cứ xác định bị cáo có tội và áp dụng pháp luật: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 01/3/2022 tại khu vực cổng Công ty SK9 thuộc khu dân cứ Lĩnh Đông, phường Phạm Thái, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Th có hành vi cất giấu tại giá để hàng giữa thân xe mô tô biển kiểm soát 34 D1-121.80 do mình điều khiển 06 hộp pháo nổ (pháo hoa nổ) có tổng khối lượng là 10 kg mục đích để sử dụng (đốt) thì bị bắt quả tang và thu giữ vật chứng.
[3]. Sự thừa nhận đó phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, biên bản phạm tội quả tang, của người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc cất giữ pháo nổ để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, đã vi phạm Nghị định 137/2020/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2020 của Chính Phủ về quản lý, sử dụng pháo. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ hàng cấm, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn truy tố để Toà án xét xử bị cáo về tội Tàng trữ hàng cấm theo điểm c khoản 1 Điều 191 BLHS là có căn cứ pháp luật.
[4] Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, HĐXX xác định là tội phạm ít nghiêm trọng. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 BLHS. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng huy chương nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[5]. Từ những nhận định trên, HĐXX thấy rằng bị cáo có nơi cư trú ổn định, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, bị cáo có khả năng tự cải tạo nên áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo theo quy định tại Điều 38, 65 BLHS cũng đảm bảo tính răn đe, không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[6]. Về hình phạt bổ sung: Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, hoàn cảnh gia đình của bị cáo, không cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 4 Điều 191 BLHS.
[7]. Về vật chứng: Chiếc xe máy bị cáo sử dụng để chở pháo, là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, tịch thu phát mại, ½ giá trị chiếc xe sung quỹ Nhà nước, ½ giá trị còn lại trả chị Nguyễn Thị T. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A10 trong kèm sim, quá trình điều tra xác định là của Đặng Văn Th không liên quan đến việc phạm tội, ngày 14/3/2022, Cơ quan điều tra đã trả lại Th là phù hợp.
[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; khoản 1, 2 và 5 Điều 65 Bộ luật hình sự.
Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1/ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Văn Th phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.
2/ Về hình phạt:
- Xử phạt bị cáo Đặng Văn Th 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/6/2022).
Giao Đặng Văn Th cho Ủy ban nhân dân xã T, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục người bị kết án.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại các điều 68, 92 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo theo quy định tại khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự.
Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 12 ngày 20/5/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Kinh Môn theo quy định tại Điều 125 BLTTHS.
3/ Về vật chứng: Tịch thu phát mại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 34 D1- 121.80 (Kèm Giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Đặng Văn Th), ½ số tiền giá trị chiếc xe thu được sung quỹ Nhà nước, ½ giá trị còn lại trả chị Nguyễn Thị T.
(Vật chứng hiện đang được lưu kho của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Kinh Môn. Đặc điểm vật chứng theo biên bản bàn giao vật chứng giữa Công an thị xã Kinh Môn và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Kinh Môn ngày 21/6/2022)
4/ Về án phí: Bị cáo Đặng Văn Th phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5/ Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình. Thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án./
Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 53/2022/HS-ST
Số hiệu: | 53/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/06/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về