Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 33/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH LIÊM, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 33/2020/HS-ST NGÀY 17/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 17 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2020, đối với bị cáo:

+ Nguyễn Văn V - sinh năm 1977; nơi cư trú : Khu 4, phường PT, thị xã KM, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L (đã chết) và bà Nguyễn Thị Ch; có vợ: Phạm Thị H; con: có 02 con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 04/01/2020 đến ngày 10/01/2020 được cho tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Phạm Văn T - sinh năm 1988; nơi cư trú : Khu 4, phường PT, thị xã KM, tỉnh Hải Dương. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian trước ngày 04/01/2020, V có gặp và quen biết một người bạn tên H1, nhà ở thị trấn KK, huyện TL, tỉnh Hà Nam (V không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể và không nhớ đặc điểm nhận dạng), trong quá trình nói chuyện, H1 bảo V nếu có nhu cầu mua pháo nổ để chơi trong dịp tết nguyên đán thì H1 bán cho V với giá 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng)/01 bệ. Do đang có nhu cầu mua pháo chơi tết nên V nói với H1 “Khi nào có thì mang cho anh một ít”. Đến ngày 04/01/2020, H1 gọi điện thoại mời V ăn tối tại nhà hàng SL có địa chỉ tại thôn QT, xã TH, huyện TL, tỉnh Hà Nam thì V đồng ý. Khoảng 17 giờ 30 ph t cùng ngày, sau khi hết giờ làm việc tại công ty mỏ đá NT thuộc xã LS, huyện KB, tỉnh Hà Nam, V điều khiển xe mô tô BKS: 34P2 - 7... đến nhà hàng SL. Tại đây, V gặp và ăn tối cùng H1 và hai người bạn gái của H1, H1 tự giới thiệu tên là N và HA nhà ở thành phố PL, tỉnh Hà Nam (V không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể), sau đó tất cả cùng ngồi ăn tối. Đến khoảng gần 21 giờ cùng ngày, khi chuẩn bị ra về thì H1 nói với V “Em để ở xe rồi đấy” - V hiểu ý H1 bảo đã để số pháo V nhờ mua hộ ở xe mô tô của V, V liền đi ra chỗ để xe mô tô của mình thì thấy 01 chiếc t i ni lon màu đen để ở giá để hàng phía trước xe, V biết đây là số pháo H1 bán cho mình nên V bảo H1 sẽ trả tiền cho H1 sau thì H1 đồng ý. Sau đó, V điều khiển xe mô tô BKS: 34P2 - 7... chở số pháo vừa mua được của H1 đi về công ty. Khi đi đến khu vực ngã tư đường QL1A thuộc địa phận thôn Quang Trung, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang.

* Vật chứng thu giữ:

- 05 (năm) hộp hình chữ nhật bên ngoài có dán giấy đỏ màu vàng, tím trên bề mặt có nhiều chữ nước ngoài, kích thước (14,5x14,5x15)cm (nghi là pháo nổ) được niêm phong ký hiệu QT01;

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, niêm phong ký hiệu QT02;

- 01 (một) túi ni lông màu đen có hai quai xách kích thước (36x57)cm;

- 01 (một) xe mô tô BKS: 34P2 - 7... cùng toàn bộ giấy tờ liên quan.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn V: Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm không phát hiện, thu giữ đồ vật tài liệu gì có liên quan đến vụ án.

Ngày 05/01/2020, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam đã ra Quyết định trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Ninh Bình giám định đối với mẫu vật đã thu giữ, niêm phong ký hiệu QT01.

Tại bản kết luận giám định số 14/KLGĐ - PC09 - ChN ngày 08/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: 05 (năm) khối hình hộp chữ nhật gửi giám định có tổng khối lượng là 7,076kg (Bẩy phẩy không trăm bẩy mươi sáu ki lô gam); 05 (năm) khối hình hộp chữ nhật gửi giám định đều là pháo có đầy đủ các đặc tính của pháo nổ (bên trong có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây ra tiếng nổ.

Tại bản cáo trạng số 30/CT-VKSTL ngày 04/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm đã truy tố Nguyễn Văn V về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng không có ý kiến bổ sung hoặc thay đổi gì. Sau khi phân tích đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 65 của Bộ luật Hình sự - Xử phạt Nguyễn Văn V từ 12 đến 18 tháng tù, cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 24 đến 36 tháng tính từ ngày tuyên án. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; xử lý vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy số pháo hoàn trả sau giám định; 01 (một) túi ni lông màu đen có hai quai xách kích thước (36x57)cm; trả lại cho Nguyễn Văn V 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia. Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

- Bị cáo Nguyễn Văn V đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đ ng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà cũng như tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đ ng như bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 21 giờ 00 ph t ngày 04/01/2020, tại khu vực ngã tư đường quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn Quang Trung, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Văn V điều khiển xe mô tô BKS: 34P2 - 7..., cất giấu ở giá đèo hàng phía trước xe mô tô 01 (một) t i nilon màu đen bên trong chứa 05 (năm) hộp pháo, tổng khối lượng 7,076 kg (bảy phẩy không trăm bảy mươi sáu ki-lô-gam), có đặc tính của pháo nổ mục đích để sử dụng trong dịp tết Nguyên đán. Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ hàng cấm”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 191 của Bộ luật hình sự. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát là hoàn toàn đ ng người, đ ng tội, đ ng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế và chế độ quản lý đối với các loại hàng hoá mà Nhà nước cấm lưu hành, sản xuất, buôn bán, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương nhất là vào các dịp lễ tết truyền thống của dân tộc, gây bất bình trong nhân dân. Do đó Hội đồng xét xử thấy cần ra bản án nghiêm khắc tương xứng hành vi phạm tội của bị cáo.

Xét về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:

Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tôi của mình. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Qua xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng và được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà cho bị cáo được hưởng án treo với thời gian thử thách nhất định dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung, đồng thời thể hiện tính nhân đạo, sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội lần đầu biết ăn năn hối cải như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định; nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Xử lý vật chứng:

- Quá trình điều tra xác định xe mô tô BKS: 34P2 - 7... là tài sản hợp pháp của anh vợ Nguyễn Văn V là anh Phạm Văn T - sinh năm 1988, tr tại: khu 4 Minh Khai, phường PT, thị xã KM, tỉnh Hải Dương cho V mượn để làm phương tiện đi lại, anh T không biết việc V sử dụng chiếc xe mô tô trên để đi mua, vận chuyển pháo. Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại xe mô tô BKS: 34P2 - 7... và giấy tờ liên quan cho anh Phạm Văn T là có căn cứ.

- Đối với số pháo nổ đã thu giữ của bị cáo được hoàn trả sau giám định là vật cấm sản xuất, buôn bán cần tịch thu, tiêu hủy; 01 (một) túi ni lông màu đen có hai quai xách kích thước (36x57)cm không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, niêm phong ký hiệu QT02; là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.

[5] Các vấn đề khác: Đối với nguồn gốc số pháo đã thu giữ và người đã bán pháo cho bị cáo căn cứ vào lời khai của bị cáo. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã xác minh, ra lệnh thu giữ điện tín đối với số thuê bao 0966581... xác định người đứng tên thuê bao là chị Nguyễn Thị Nh - sinh năm 1983 tr tại: thôn QT, xã TH, huyện TL, tỉnh Hà nam. Chị Nh xác định bản thân không sử dụng số điện thoại trên và cũng không cho ai mượn chứng minh thư nhân dân để đăng ký số thuê bao điện thoại trên. Ngoài lời khai của bị cáo không có tài liệu nào khác để chứng minh, vì vậy không có căn cứ để Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam triệu tập, xác minh, làm rõ. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với H1 và hai người phụ nữ cùng ngồi ăn tối với bị cáo tại nhà hàng SL, ngoài lời khai của bị cáo không còn tài liệu nào khác, nên không có căn cứ để triệu tập, xác minh, làm rõ, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 191, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điều 106, 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, 1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo;

thời gian thử thách là 24 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Văn V cho Ủy ban nhân dân phường Phú Thứ, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 thùng cattong kích thước (32 x 33 x 36) cm tại các mép thùng được dán niêm phong có chữ ký và dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình bên trong có 05 (năm) hộp pháo, mỗi hộp có đặc điểm hình hộp, kích thước (14,5x14,5x15)cm bên ngoài bọc giấy màu có các chữ nước ngoài; 01 (một) túi ni lông màu đen có hai quai xách kích thước (36x57)cm; trả lại cho Nguyễn Văn V 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia.

(Chi tiết vật chứng như trong Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01/6/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Liêm).

4. Án phí: Bị cáo Nguyễn Văn V phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 33/2020/HS-ST

Số hiệu:33/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Liêm - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;