Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 20/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 20/2021/HS-ST NGÀY 19/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 19 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 15/2021/TLST- HS ngày 22 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo Lê Văn Tr, sinh năm 1996 tại tỉnh H; nơi cư trú: Thôn M, xã Th, huyện L, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Đ và bà Đinh Thị Ph; vợ, con: Chưa có; tiền sự, tiền án: Không. Tạm giữ ngày 03/01/2021; áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” ngày 11/01/2021. Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Văn Đ, sinh năm 1978; trú tại: Thôn M, xã Th, huyện L, tỉnh H. Có mặt.

* Người làm chứng: Ông Phạm Văn H1, sinh năm 1974; Ông Nguyễn Duy M1, sinh năm 1958. Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 03/01/2020, Lê Văn Tr sinh năm 1996 trú tại thôn Minh Thành, xã Thống Nhất, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình điều khiển xe mô tô BKS 28L1-xxxxx đi từ nhà đến tỉnh H mục đích tìm mua pháo nổ về sử dụng. Khi đến gần khu Công nghiệp Đồng Văn IV thuộc thôn Siêu Nghệ, xã Nhật Tựu, huyện B, tỉnh H, Trưởng gặp một người đàn ông không quen biết, Trưởng hỏi người đàn ông: "Anh có pháo nổ để cho em 05 giàn 36", người đàn ông nói "Giá 400.000đồng/giàn". Trưởng đưa người đó 2.000.000đồng; người đó cầm tiền và chỉ tay về phía bao tải dứa màu trắng ở rệ đường và nói: "Pháo ở bên trong" rồi bỏ đi. Trưởng đi đến mở bao tải dứa ra kiểm tra bên trong có đủ 05 giàn pháo nổ 36 quả nên Trưởng bê ra xe mô tô để đi về thì bị lực lượng Công an xã Nhật Tựu, huyện B phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ trên tay của Lê Văn Tr 01 bao tải dứa màu trắng, bên trong chứa 05 hình hộp đều có kích thước (14x14x15)cm, bên ngoài đều dán giấy màu vàng đỏ in chữ nước ngoài, bên trong mỗi hộp đều có 36 vật trụ tròn, niêm phong ký hiệu QT01. Thu giữ trong túi quần phía trước bên phải của Lê Văn Tr 01 giấy CMND mang tên Lê Văn Tr; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô BKS 28L1-xxxxx mang tên Lê Văn Đoàn; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S vỏ màu trắng, niêm phong ký hiệu QT02. Tạm giữ của Lê Văn Tr 01 xe mô tô BKS 28L1-xxxxx. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Văn Tr không thu giữ được tài liệu đồ vật gì liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 19 ngày 05/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu ký hiệu QT01 là pháo, có đặc tính của pháo nổ (chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ), tổng khối lượng là 6,958kg.

Về nguồn gốc số pháo nổ thu giữ: Lê Văn Tr khai nhận mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực khu Công nghiệp Đồng Văn VI thuộc xã Nhật Tựu, huyện B, tỉnh H. Tuy nhiên, Trưởng không biết tên, tuổi, địa chỉ, không nhớ đặc điểm nhận dạng của người đàn ông đó nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B không có căn cứ xác minh làm rõ.

Xử lý vật chứng: Đối với chiếc xe mô tô chiếc xe mô tô BKS 28L1-xxxxx, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã làm rõ đây là tài sản hợp pháp của ông Lê Văn Đoàn là bố đẻ của Lê Văn Tr. Ông Đoàn không biết Trưởng mượn xe đi mua pháo nổ nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho ông Đoàn.

Tại bản cáo trạng số 22/CT-VKSKB ngày 19/02/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh H đã truy tố Lê Văn Tr về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Văn Tr phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Lê Văn Tr từ 9 tháng đến 12 tháng tù cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu và tiêu hủy một thùng catton niêm phong nguyên vẹn ký hiệu QT01. Trả lại cho Lê Văn Tr một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, đã qua sử dụng, một giấy chứng minh nhân dân số 113694839 mang tên Lê Văn Tr cấp ngày 17/3/2015 do Công an tỉnh Hòa Bình cấp. Ngoài ra Viện kiểm sát còn đề nghị về án phí và quyền kháng cáo. Bị cáo nhất trí với cáo trạng, luận tội của Viện kiểm sát. Bị cáo không tranh luận gì và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện B trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Lê Văn Tr tại phiên tòa phù hợp với lời khai nhận tội tại cơ quan điều tra, biên bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, người làm chứng, bản kết luận giám định về thời gian, địa điểm cùng toàn bộ các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được đưa ra xem xét tại phiên tòa. Tòa án có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 03/01/2021, tại khu Công nghiệp Đồng Văn IV thuộc thôn Siêu Nghệ, xã Nhật Tựu, huyện B, tỉnh H. Công an huyện B phát hiện, bắt quả tang Lê Văn Tr, sinh năm 1996, nơi cư trú tại thôn Minh Thành, xã Thống Nhất, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình cất giữ trái phép 6,958 kilôgam pháo nổ mục đích để sử dụng. Hành vi đó của Lê Văn Tr đã phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, sản xuất kinh doanh một số loại hàng cấm, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội.

[4] Xét về mặt chủ quan của tội phạm, bị cáo thực hiện do lỗi cố ý, nhận thức rõ hành vi cất giữ 6,958 kilôgam pháo nổ của mình, mục đích để sử dụng nhưng không có giấy phép hợp lệ là trái pháp luật vì pháo nổ là một trong các loại hàng hóa Nhà nước không cho phép lưu thông trên thị trường mà vẫn thực hiện.

[5] Khi quyết định hình phạt, Tòa án cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo. Đó là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tình tiết tăng nặng bị cáo không phải chịu. Ngoài ra, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, do đó không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng treo và ấn định thời gian thử thách như đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo lời khai của bị cáo tại phiên tòa và các tài liệu chứng cứ thì bị cáo là lao động tự do, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số pháo nổ: Lê Văn Tr khai nhận mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực khu Công nghiệp Đồng Văn VI thuộc xã Nhật Tựu, huyện B, tỉnh H. Trưởng không biết tên, tuổi, địa chỉ, không nhớ đặc điểm nhận dạng của người đàn ông đó nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B không có căn cứ xác minh làm rõ để xử lý được.

[8] Về xử lý vật chứng: Gồm một thùng catton niêm phong nguyên vẹn ký hiệu QT01 là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. Đối với một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S đã qua sử dụng. Một giấy chứng minh nhân dân số 113694839 mang tên Lê Văn Tr cấp ngày 17/3/2015 do Công an tỉnh Hòa Bình cấp đều là tài sản và giấy tờ tùy thân của bị cáo không phải là vật chứng nên trả lại cho bị cáo theo quy định Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với chiếc xe mô tô BKS 28L1-xxxxx, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã làm rõ và đã trả lại chiếc xe trên cho chủ sở hữu là ông Đoàn, ông Đoàn không có ý kiến gì nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331; Điều 332; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn Tr phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191; Điều 50; điểm i điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Lê Văn Tr 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Lê Văn Tr cho Ủy ban nhân dân xã Thống Nhất, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự 2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu và tiêu hủy một thùng catton niêm phong nguyên vẹn ký hiệu QT01. Trả lại cho bị cáo Lê Văn Tr một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, đã qua sử dụng; một giấy chứng minh nhân dân số 113694839 mang tên Lê Văn Tr cấp ngày 17/3/2015 do Công an tỉnh Hòa Bình cấp. (Tình trạng, số lượng vật chứng như biên bản bàn giao giữa cơ quan điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B ngày 19/02/2021).

3. Án phí: Căn cứ Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lê Văn Tr phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 20/2021/HS-ST

Số hiệu:20/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;