TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 188/2024/HS-PT NGÀY 30/09/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 245/2024/HSPT ngày 06/9/2024 đối với bị cáo Nguyễn Văn H, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2024/HS-ST ngày 30/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
* Bị cáo kháng cáo:
Nguyễn Văn H, sinh năm 1992;
Giới tính : Nam; CCCD số 0380920xxxxx.
HKTT: Thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa;
Nơi ở hiện nay: Thôn N, xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Con ông Nguyễn Văn H1, sinh năm 1968, con bà Mai Thị Q, sinh năm 1972; Có vợ là Hoàng Thị C; Có 03 con, lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2023; Tiền sự: Không;
Tiền án: Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 198/2019/HSPT ngày 23/8/2019 của TAND tỉnh Thanh Hoá, xử phạt 09 tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm; hình phạt bổ sung 10.000.000đ; nộp lại 10.200.000đ sung vào ngân sách Nhà nước và phải nộp 200.000đ án phí HSST. Đến ngày 02/01/2024, sau khi thực hiện hành vi phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”, Nguyễn Văn H mới nộp xong các khoản thi hành án dân sự theo Bản án nêu trên.
Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.
Bị cáo tại ngoại; Có mặt.
Các bị cáo Đoàn Văn T và Trần Văn T1 và Mai Văn Đ không kháng cáo; không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do mâu thuẫn trong việc vay mượn tiền giữa Lường Huy T2 và Lê Xuân G Khoảng 21h00” ngày 01/01/2024, trong quá trình làm nhiệm vụ tại khu vực thôn H, xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra về kinh tế - ma túy Công an huyện N phối hợp với Công an xã N tiến hành kiểm tra, phát hiện đối tượng Trần Văn T1, sinh ngày 13/6/1976, trú tại thôn C, xã N, huyện N đang có hành vi tàng trữ 03 khối hộp hình chữ nhật, kích thước khác nhau, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc để trong 01 bao tải màu xanh, nghi là pháo nổ. Trần Văn T1 khai nhận 03 khối hộp hình chữ nhật nêu trên là 03 hộp pháo hoa nổ, T1 đang mang pháo đi giao cho người mua. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản, đưa đối tượng về làm việc đồng thời thu giữ, niêm phong tang vật, tài sản có liên quan theo quy định của pháp luật.
Tang vật, tài sản thu giữ: 01 (một) vỏ bao tải màu xanh; 03 (ba) khối hộp hình chữ nhật, kích thước khác nhau, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc. Trong đó: 02 (hai) hộp có kích thước (17x17x10)cm, bên trong có 49 ống hình trụ tròn, dài 10cm, đường kính 2,5 cm liên kết với nhau thành giàn; 01 (một) hộp còn lại có kích thước (17,5x17,5x10)cm, bên trong có 49 ống hình tròn nguyên khối đúc (ký hiệu M1 trong kết luận giám định);
- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA NOUVO màu xanh trắng, BKS: 93M1 - xxxxx, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A50S màu xanh đen, gắn sim số 0974.808.xxx và 0581.825.xxx, đã qua sử dụng.
Tại Cơ quan điều tra, Trần Văn T1 xin tự thú và khai nhận: số pháo hoa nổ bị Cơ quan điều tra thu giữ vào tối ngày 01/01/2024 là của Đoàn Văn T, sinh năm 1976, trú tại thôn H, xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa nhưng đang sinh sống và làm việc tại tỉnh Bình Phước. Ngày 21/12/2023, T sử dụng số điện thoại 0983.146.xxx liên lạc đến số 0974.808.xxx của T1 thông báo sẽ gửi cho Túc 01 thùng hàng, bên trong có chứa pháo hoa nổ qua nhà xe T7. Thực nhờ T1 cất giữ số pháo hoa nổ này với mục đích sẽ bán lại cho những người có nhu cầu cần sử dụng để lấy tiền lời, T1 đồng ý. Sau đó, T dùng tài khoản zalo “Thucdao” nhắn thông tin số điện thoại nhà xe T7 và hình ảnh thùng hàng đến tài khoản zalo của T1. Đến ngày 22/12/2023, T tiếp tục liên lạc với T1 nói ra điểm hẹn đón xe để nhận hàng. Túc một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA NOUVO màu xanh trắng, BKS: 93M1 - xxxxx đến điểm hẹn. Sau khi nhận được thùng hàng bên trong có chứa pháo hoa nổ theo hướng dẫn của T, T1 mang về nhà cất giữ tại buồng ngủ của gia đình. T và T1 trao đổi và thống nhất với nhau về việc nếu có người mua pháo, T sẽ là người trực tiếp thỏa thuận về việc mua bán với họ. Sau đó T sẽ thông báo lại cho T1 để mang pháo đến điểm hẹn giao cho người mua, nếu người mua chưa chuyển khoản tiền cho T thì T1 sẽ trực tiếp lấy tiền của người mua rồi sau đó sẽ chuyển khoản lại cho T.
Khoảng 20h00” ngày 31/12/2023, khi T1 đang ở nhà thì T gọi điện thoại nói T1 mang 05 (năm) hộp pháo đến cổng nhà của T ở thôn H, xã N, huyện N để bán cho người mua. Túc có hỏi T việc thu tiền như thế nào thì T trả lời người mua sẽ trực tiếp chuyển tiền cho T. Khoảng 30 phút sau, T1 lấy 05 hộp pháo bỏ vào một túi nilon màu đen rồi điều khiển xe mô tô BKS: 93M1 - xxxxx đến khu vực gần nhà T. Khi đến nơi, T1 nhìn thấy một nam thanh niên (Mai Văn Đ, người ở xã N) đang ngồi trên xe mô tô nhãn hiệu Dream BKS: 36F5 - xxxxx. Sau khi hỏi chuyện, biết Đ là người mua pháo của T nên T1 đã giao toàn bộ 05 hộp pháo cho Đ. Sau đó, T1 đi về nhà và thông báo lại cho T biết việc mình đã giao được pháo cho người mua.
Tiếp đó, khoảng 18h38” ngày 01/01/2024, T1 đang ở nhà thì tiếp tục nhận được điện thoại của T nói Túc chuẩn bị khi nào T báo thì mang 03 (ba) hộp pháo đến gần nhà của T để bán cho người mua và thu số tiền 3.300.000đ. Đến 20h31” cùng ngày, T điện lại nói T1 mang pháo đi bán và nhận tiền. Túc lấy 03 hộp pháo còn lại bỏ vào một vỏ bao tải màu xanh, điều khiển xe mô tô BKS: 93M1 - xxxxx đến điểm hẹn. Khi đi đến khu vực thôn H, xã N, huyện N thì bị kiểm tra, phát hiện như đã nêu trên.
Quá trình kiểm tra, xác minh mở rộng theo nội dung khai báo của Trần Văn T1, khoảng 02h00” ngày 02/01/2024, Mai Văn Đ, sinh ngày 22/12/2002, trú tại thôn M, xã N, huyện N đã đến trụ sở Công an huyện N xin đầu thú và thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi mua 05 hộp pháo hoa nổ của T1 vào tối ngày 31/12/2023. Đồng thời tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Promax màu xanh đen, gắn sim số 0386.163.xxx, đã sử dụng để liên lạc trao đổi mua pháo.
Tại cơ quan điều tra, Mai Văn Đ khai nhận: Khoảng đầu tháng 12/2023, anh họ của Đ là Nguyễn Văn H (sinh ngày 17/02/1992, trú tại thôn N, xã N, huyện N) có nói với Đ xem có mối nào bán pháo hoa nổ không, tìm mua về để anh em chơi tết. Sau khi đi dò hỏi thì Đ được Trần Văn T3 (sinh năm 1990; trú tại thôn N, xã N) cho số điện thoại của T để Đ liên hệ hỏi mua pháo.
Chiều ngày 31/12/2023, Đ đã gọi điện thoại cho T để hỏi mua pháo. Cả hai thỏa thuận giá mỗi hộp pháo từ 1.100.000đ đến 1.200.000đ. Sau đó, Đ gọi lại cho Hải báo mình đã tìm được chỗ mua pháo. H và Đ thống nhất sẽ mua 05 hộp pháo. H dùng điện thoại của mình chuyển số tiền 6.000.000d đến tài khoản của Đ. Nhận được tiền của H, Đ liên hệ lại với T để chốt mua 05 hộp pháo thì được T báo giá số tiền 5.500.000đ. Sau khi Đ chuyển tiền cho T, T hẹn Đ khoảng 20h đến 21h đến khu vực cổng trường M thuộc địa phận thôn H, xã N, huyện N (gần nhà của T) để nhận pháo. Khoảng hơn 20h cùng ngày, Đ điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Dream BKS: 36F5 - xxxxx đi đến điểm hẹn rồi điện lại cho T. Thực hướng dẫn Đ tiếp tục di chuyển đến khu vực ngã ba cổng chào xóm H đứng đợi sẽ có người mang pháo đến. Sau đó, T1 mang pháo đến giao cho Đ như đã nêu ở trên. Sau khi mua được pháo, Đ điều khiển xe quay về nhà văn hóa thôn E (thôn N) để gặp H. Tại đây, Đ đưa toàn bộ số pháo cho H mang về cất giấu rồi tiếp tục đi về nhà.
Đối với Nguyễn Văn H, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đã bị phát hiện, khoảng 02h45” ngày 02/01/2024, H cũng đã tự nguyện đến trụ sở công an xã N xin đầu thú và thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi của mình. Đồng thời tự nguyện giao nộp toàn bộ 05 hộp pháo đã mua được vào ngày 31/12/2023 (ký hiệu M2 trong kết luận giám định) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu trắng, gắn sim số 0973.207.xxx, đã sử dụng để chuyển tiền và liên lạc trao đổi mua pháo.
Ngày 02/01/2024, Cơ quan CSĐT Công an huyện N đã thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Văn T1, Mai Văn Đ và Nguyễn Văn H. Tuy nhiên, không phát hiện, thu giữ được tang vật, tài sản nào khác có liên quan.
Đối với Đoàn Văn T, mặc dù có hộ khẩu thường trú và nhà ở tại thôn H, xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa nhưng cũng có thời gian làm ăn, sinh sống tại Ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Bình Phước. Khi liên lạc mua bán pháo và nói T1 đi giao pháo thì T đang sinh sống tại Bình Phước. Sau khi khởi tố vụ án, Cơ quan CSĐT Công an huyện N đã nhiều lần triệu tập Thực để làm việc nhưng vì nhiều lý do, T không đến trình diện. Quá trình điều tra, xác định có đủ căn cứ khởi tố, đến ngày 18/5/2024, Cơ quan CSĐT đã ra Quyết định khởi tố bị can và Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Đoàn Văn T. Tại cơ quan CSĐT Công an huyện N, T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, phù hợp với lời khai của Trần Văn T1, Mai Văn Đ và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập.
Ngày 02/01/2024, Cơ quan CSĐT Công an huyện N đã ban hành Quyết định số 02/QĐTC-CSĐT trưng cầu Phòng K Công an tỉnh T giám định số tang vật thu giữ của Trần Văn T1 và Nguyễn Văn H có phải là pháo hay không? Nếu là pháo thì là loại pháo gì? Khi bị kích thích (hoặc đốt) có gây tiếng nổ hay không? Có tổng khối lượng là bao nhiêu? Tại bản Kết luận giám định số 29/KL-KTHS ngày 04/01/2024 của Phòng K Công an tỉnh T kết luận:
1. Mẫu vật ký hiệu M1 (thu giữ của Trần Văn T1): Tất cả 03 (ba) khối hộp trên của thùng catton niêm phong gửi giám định đều là loại pháo hoa nổ (thuộc pháo nổ). Tổng khối lượng số pháo trên là 4,9kg (bốn phẩy chín ki lô gam).
2. Mẫu vật ký hiệu M2 (thu giữ của Nguyễn Văn H): Tất cả 05 (năm) khối hộp trên của thùng catton niêm phong gửi giám định đều là loại pháo hoa nổ (thuộc pháo nổ). Tổng khối lượng số pháo trên là 8,06kg (tám phẩy không sáu ki lô gam).
Như vậy, tổng khối lượng pháo hoa nổ Đoàn Văn T và Trần Văn T1 buôn bán là 12,96kg; tổng khối lượng pháo hoa nổ Mai Văn Đ và Nguyễn Văn H tàng trữ là 8,06kg.
Về nguồn gốc 08 hộp pháo hoa nổ, Đoàn Văn T khai nhận đã đặt mua vào khoảng giữa tháng 12/2023 thông qua tài khoản Facebook với giá tiền 2.000.000đ. Sau khi nhận được pháo từ người giao hàng (S), T đã xoá các thông tin về việc mua pháo, thời gian đã lâu, T không nhớ, không xác định được thông tin liên quan của người bán.
Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc điện thoại di động Đoàn Văn T sử dụng để liên lạc mua bán pháo, khoảng tháng 4/2024 (trước khi bị bắt) T đã làm mất nên không thu giữ được. Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Dream biển kiểm soát 36F5-003.14 mà Mai Văn Đ sử dụng làm phương tiện đi mua và chở pháo về, kết quả điều tra xác định chiếc xe này là tài sản của ông Mai Văn T4 (bố của Đ) do đó cơ quan CSĐT không thu giữ là phù hợp.
Các vật chứng còn lại do cơ quan CSĐT thu giữ thuộc sở hữu của các bị cáo và pháo nổ là hàng cấm sản xuất, buôn bán, cần tiếp tục tạm giữ để xử lý, bao gồm:
- Số pháo hoa nổ còn lại sau giám định (12,5kg) được đựng trong 02 hộp catton dán kín và niên phong bởi chữ ký, họ tên của Trần Nam Gl, Lê Hùng C1 và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung “Phòng K - Công an tỉnh T”.
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A50S màu xanh đen, gắn sim số 0974.808.xxx và 0581.825.xxx của Trần Văn T1, đã qua sử dụng (đã được niêm phong).
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Promax màu xanh đen, gắn sim số 0386.163.xxx của Mai Văn Đ, đã qua sử dụng (đã được niêm phong).
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone xs Max màu trắng, gắn sim số 0973.207.xxx của Nguyễn Văn H, đã qua sử dụng (đã được niêm phong).
- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA NOƯVO màu xanh trắng, BKS: 93M1 - xxxxx của Trần Văn T1, đã qua sử dụng.
- 01 bao tải màu xanh và 01 túi bóng màu đen.
Đối với số tiền 5.500.000đ Đoàn Văn T bán pháo cho Mai Văn Đ mà có, T đã chi tiêu hết nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
Đối với công dân Trần Văn T3, theo lời khai của Mai Văn Đ thì T3 là người cho Đ số điện thoại của T để Đ liên hệ mua pháo. Tuy nhiên, T3 khẳng định không có sự việc này, kết quả đối chất, T3 cũng không thừa nhận nội dung liên quan như lời khai của Đ. Do chỉ có duy nhất lời khai của Đ về việc T3 có hành vi giúp sức cho Đ mua pháo nên không đủ căn cứ kết luận vi phạm và xử lý đối với T3.
Đối với người đã liên hệ đặt mua 03 hộp pháo hoa nổ của T tối ngày 01/01/2024, kết quả xác minh chủ thuê bao số 0857.238.xxx đã gọi cho T là anh Đỗ Văn T5 (sinh năm 1978; trú tại Thôn E, xã N, huyện N). Tuy nhiên, anh T5 khẳng định không đăng ký và sử dụng số điện thoại này, bản thân không hỏi mua bán pháo của ai. Đoàn Văn T chỉ xác định được người gọi điện hỏi mua pháo sử dụng số điện thoại 0857.238.xxx, không biết thông tin gì khác. Do vậy, không có căn cứ để tiếp tục xác minh.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2024/HSST ngày 30/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá đã quyết định:
Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 190; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38; Khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự. Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự (Đối với Đoàn Văn T).
- Điểm c khoản 1 Điều 190; Điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17 ; Điều 58; Điều 38; Khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự. (Đối với Trần Văn T1).
- Điểm c khoản 1 Điều 191; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự. (Đối với Nguyễn Văn H).
- Điểm c khoản 1 Điều 191; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17 ; Điều 58 ; Điều 35 Bộ luật hình sự. (Đối với Mai Văn Đ).
- Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Khoản 2 Điều 106 ; Điều 331 ; 332 ; 333; 337 Bộ luật tố tụng hình sự Khoản 1 Điều 21; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Q1.
Tuyên bố: Các bị cáo Đoàn Văn T và Trần Văn T1 phạm tội “Buôn bán hàng cấm”. Các bị cáo Nguyễn Văn H và Mai Văn Đ phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.
- Xử phạt: Bị cáo Đoàn Văn T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa.
Giao bị cáo Đoàn Văn T cho chính quyền xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa quản lý giáo dục trong thời gian thử thách.
- Xử phạt: Bị cáo Trần Văn T1 15 (Mười lăm) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 08 (T6) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.
- Xử phạt: Bị cáo Mai Văn Đ 60 (Sáu mươi) triệu đồng. Thời hạn thi hành án ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Án sơ thẩm còn quyết định về tang vật trong vụ án, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo của bị cáo.
* Sau khi xét xử, bị cáo Nguyễn Văn H làm đơn kháng cáo bản án với nội dung: Đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo * Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo công nhận hành vi phạm tội như quyết định của cấp sơ thẩm đối với bị cáo là đúng và giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự:
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H;
Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2024/HSST ngày 30/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo nộp trong thời hạn luật định, nên được chấp nhận để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét nội dung kháng cáo:
- Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Vào ngày 21/12/2023, Đoàn Văn T và Trần Văn T1 đã thống nhất với nhau về việc buôn bán pháo hoa nổ để lấy tiền lời. Sau đó, T đã gửi cho T1 08 hộp pháo hoa nổ có tổng khối lượng 12,96kg để bán cho người khác. Khoảng 21 giờ ngày 31/12/2023, tại thôn H, xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa, T và T1 đã bán cho Mai Văn Đ và Nguyễn Văn H 05 hộp pháo hoa nổ có tổng khối lượng 8,06kg với giá 5.500.000đ. Đến tối ngày 01/01/2024, T tiếp tục đem 03 hộp pháo còn lại đi bán, tuy nhiên T chưa gặp và giao pháo cho người mua thì đã bị lực lượng Công an phát hiện, thu giữ tang vật.
Mai Văn Đ và Nguyễn Văn H sau khi mua được 05 hộp pháo hoa nổ có tổng khối lượng 8,06kg đã đem về cất giấu tại nhà ở của H thuộc địa phận thôn N, xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa, nhằm mục đích sử dụng vào dịp tết Nguyên đán. Đến ngày 02/01/2024, H đã giao nộp 05 hộp pháo này cho cơ quan CSĐT.
Với hành vi trên, cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Đoàn Văn T và Trần Văn T1 về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo Mai Văn Đ và Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự năm 2015, là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo H chỉ kháng cáo đề nghị Toà án cấp phúc thẩm giảm hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
- Xét kháng cáo của bị cáo H: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo gồm:
Về các tình tiết tăng nặng: Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đó là “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Về các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Sau khi bị phát hiện bị cáo đã đến cơ quan Công an “đầu thú” về hành vi phạm tội của bản thân, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn H nộp cho Toà án tài liệu thể hiện bị cáo có ông nội và ông ngoại được tặng thưởng huân, huy chương kháng chiến. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, bị cáo có 01 tiền án về tội “Đánh bạc”, chưa được xoá án tích. Theo quy định tại Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 và Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì bị cáo không đủ điều kiện để được hưởng án treo, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 08 tháng tù là phù hợp với quy định của pháp luật, phù hợp hành vi phạm tội của bị cáo.
Do đó, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của bị cáo như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá tại phiên toà là có căn cứ.
[3] Các phần quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Án phí phúc thẩm: Bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm vì kháng cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H;
Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2024/HSST ngày 30/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
[2] Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 191; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị Quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
[3] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 08 (T6) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt chấp hành bản án.
[4] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 188/2024/HS-PT
Số hiệu: | 188/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về