TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 93/2022/HS-PT NGÀY 05/07/2022 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 05 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 85/2022/TLPT-HS ngày 09 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Đình B do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2022/HS-ST ngày 05 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Đình B, sinh ngày 01/01/1975 tại Lâm Đồng; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Khóm 5, phường 6, thành phố C, tỉnh Cà Mau; chỗ ở hiện nay: Khóm 7, phường 6, thành phố C, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th và bà Đặng Thị H (đã chết); có vợ tên Phạm Thị H1 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng cuối năm 2019 Nguyễn Đình B lên mạng xã hội Zalo thấy có đăng thông tin làm giấy phép lái xe giả, nên B đặt làm một giấy phép lái xe hạng E với giá 7.000.000 đồng. B chụp ảnh giấy phép lái xe hạng C của B gửi qua Zalo cho đối tượng để cung cấp thông tin làm giả giấy phép lái xe. Khoảng 01 tháng sau, có người thanh niên điện thoại hẹn giao cho B 01 giấy phép lái xe hạng E, số 790192254221, tên Nguyễn Đình B, sinh năm 1975, cư trú khóm 7, phường 6, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, do Sở giao thông vận tải tỉnh Vĩnh Long cấp ngày 23/9/2020. Nguyễn Đình B trả cho người thanh niên này số tiền 7.000.000 đồng.
Đến đầu năm 2021, doanh nghiệp tư nhân Thuận Ph (kinh doanh vận tải đường bộ) - Chi nhánh tại thành phố Cà Mau do chị Phan Thị H làm Giám đốc. Chị H có thuê Nguyễn Đình B làm lơ xe khách.
Ngày 06 tháng 9 năm 2021, chị H cần vận chuyển hàng hóa từ Cầu Nhum phường 6, thành phố Cà Mau đến Bến xe Cà Mau nhưng không có tài xế. Chị H hỏi B điều khiển xe 16 chỗ được không, thì B trả lời được, có bằng lái xe 16 chỗ. Sau đó, H giao xe ô tô Biển số 84B-010.54 cho B để chở hàng hóa. Khi bị cáo điều khiển xe đến gần Bến xe Cà Mau thì gặp Tổ công tác 21, Công an tỉnh Cà Mau đang tuần tra, kiểm soát. Nguyễn Đình B xuất trình cho lực lượng kiểm tra 01 giấy chứng nhận xe ô tô 84B-010.54; 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường; 01 giấy phép lái xe hạng E, số 790192254221, tên Nguyễn Đình B.
Do Chứng nhận đăng kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường hết hạn sử dụng một tháng và để hàng hóa trong khoang để hành khách, nên Cán bộ lập biên bản vi phạm hành chính đối với Nguyễn Đình B, đồng thời tạm giữ: 01 xe ô tô biển số 84B-010.54; 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường;
01 giấy phép lái xe hạng E, số 790192254221, tên Nguyễn Đình B.
Ngày 09 tháng 9 năm 2021, Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Cà Mau chuyển hồ sơ vi phạm đến Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Cà Mau để xử lý.
Cùng ngày 09 tháng 9 năm 2021, Đội xử lý Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Cà Mau kiểm tra giấy phép láy xe hạng E, số 790192254221, tên Nguyễn Đình B, nghi ngờ là giả nên lập biên bản vi phạm hành chính đối với Nguyễn Đình B về hành vi “Sử dụng giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp”.
Đến ngày 13 tháng 10 năm 2021 Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Cà Mau chuyển hồ sơ có dấu hiệu vi phạm hình sự đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau để xử lý theo quy định.
Ngày 29 tháng 10 năm 2021, Sở giao thông vận tải tỉnh Vĩnh Long có công văn số 1903/SGTVT-PQLVT trả lời Công văn số 863/CV-CQCSĐT ngày 27/10/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau như sau: Sở giao thông vận tải tỉnh Vĩnh Long không cấp bất cứ giấy phép lái xe nào cho Nguyễn Đình B, sinh năm 1975, cư trú: Khóm 7, phường 6, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
Tại bản kết luận giám định số 264/GĐ-PC09 ngày 07 tháng 11 năm 2021 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Cà Mau kết luận:
“GIẤY PHÉP LÁI XE/DRIVER’S LICENSE” số/No: 790192254221, họ tên Nguyễn Đình B, ngày 23/9/2020 (ký hiệu A) là giả.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2022/HS-ST ngày 05 tháng 5 năm 2022, Tòa án nhân thành phố Cà Mau đã quyết định: Căn cứ khoản 1 Điều 341, điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo B 06 (sáu) tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 13 tháng 5 năm 2022, bị cáo có kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa phát biểu: Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2022/HS-ST ngày 05 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân thành phố Cà Mau theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Lời nói sau cùng của bị cáo: Thừa nhận hành vi phạm tội, xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội là phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ. Cụ thể: Khoảng cuối năm 2019, Nguyễn Đình B lên mạng xã hội Zalo đặt làm 01 giấy phép lái xe hạng E, tên Nguyễn Đình B, sinh năm 1975; cư trú: Khóm 7, phường 6, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau với giá 7.000.000 (bảy triệu) đồng. Khoảng 01 tháng sau, B nhận được Giấy phép lái xe số 790192254221, do Sở giao thông vận tải tỉnh Vĩnh Long cấp ngày 23/9/2020. Đến ngày 06 tháng 9 năm 2021, khi B đang điều khiển phương tiện tham gia giao thông trên đường Lý Thường Kiệt thuộc phường 6, thành phố Cà Mau, thì bị Tổ 21, Công an tỉnh Cà Mau tuần tra, kiểm soát, phát hiện, thu giữ của B giấy phép lái xe nói trên.
Kết quả giám định xác định giấy phép lái xe là giả. Với các tình tiết này, Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau đã xét xử bị cáo về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[2] Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng. Cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất của vụ án, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, gồm: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Từ đó, xử phạt bị cáo 06 tháng tù là phù hợp. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và có cung cấp tình tiết giảm nhẹ mới là lao động chính trong gia đình đang phải nuôi vợ và 02 con nhỏ được chính quyền địa phương xác nhận. Ngoài ra bị cáo có kiến thức pháp luật bị hạn chế do trình độ học vấn thấp. Nhưng để đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa các vụ việc vi phạm tương tự, thì việc xử phạt tù đối với bị cáo là cần thiết. Tuy nhiên, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, căn cứ khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự cũng nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp.
[3] Với các phân tích nêu trên, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tại phiên tòa được chấp nhận.
[4] Do kháng cáo được chấp nhận, nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các phần khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo hoặc bị kháng nghị, đã có hiệu lực thi hành kể từ khi hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136, điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 341, điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự; Khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đình B về xin giảm nhẹ hình phạt; Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2022/HS-ST ngày 05 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau về phần hình phạt.
2. Xử phạt bị cáo B 03 (ba) tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
3. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 93/2022/HS-PT
Số hiệu: | 93/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/07/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về