Bản án 837/2023/HS-PT về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 837/2023/HS-PT NGÀY 31/10/2023 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 31 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 247/2023/TLPT- HS ngày 13 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Ninh Tô R, do có kháng cáo của bị cáo và kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2023/HS-ST ngày 10/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.

Họ và tên bị cáo: Ninh Tô R, sinh năm: 1991 tại tỉnh Ninh Thuận; nơi cư trú: Số A, đường số A, khu phố Ô, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trình độ văn hóa: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Chăm; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Bà N; Con ông Ninh R1, sinh năm: 1964 và bà Trương Thị Thanh T, sinh năm: 1966; Vợ: Nguyễn Thị Kim O, sinh năm: 1991; Có 02 người con lớn nhất sinh năm 2017, nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án: Không; Tiền sự: không; Bị tạm giam từ ngày 21/01/2022 đến nay (Có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Quảng Khoa T1 - Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (Có mặt).

Bị hại:

1. Bà Hứa Thị H, sinh năm: 1984; Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt).

2. Ông Phan Đức P, sinh năm: 1975; Địa chỉ: Làng Đ, xã Đ, huyện M, tỉnh Gia Lai, vắng mặt (Có đơn xin vắng mặt).

Viện Kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre.

Người kháng cáo: Bị cáo Ninh Tô R

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ninh Tô R đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, thửa đất số 204, tờ bản đồ số 22, địa chỉ thửa đất: xã Đ, huyện B, tỉnh Bến Tre và là đại diện của Công ty TNHH T4, sở hữu xe ô tô nhãn hiệu FORD, biển số 51G-X và xe ô tô nhãn hiệu FOTON, biển số 51D-X và vợ là Nguyễn Thị Kim O có đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, thửa đất số 161, tờ bản đồ số 54, địa chỉ thửa đất: xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre. Tháng 4/2020, thông qua mạng xã hội, R đã thuê người làm giả 04 giấy tờ: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, thửa đất số 161 và thửa đất số 204; Giấy chứng nhận đăng ký của xe ô tô biển số 51G-X và xe ô tô biển số 51D-X. R đã chụp lại giấy tờ thật của gia đình mình được cấp rồi gửi hình ảnh này cho một người (không rõ nhân thân, lai lịch) nhận làm giả thông qua mạng xã hội và điện thoại di động. Sau khi làm xong, người này đã giao tài liệu giấy tờ giả cho R trên đường Q (đoạn đường từ xã L đi xã A, huyện B). R trả cho người này số tiền 5.600.000 đồng. Hiện tại, R không còn lưu giữ thông tin người làm giả tài liệu, không xác định được người giao tài liệu giả.

Sau khi có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả của thửa đất số 161, Ninh Tô R cùng vợ là chị Nguyễn Thị Kim O mang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thật của thửa đất số 161 đi ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chuyển nhượng cho ông Phan Đức P. Sau khi công chứng Hợp đồng chuyển nhượng thì R đã bí mật đánh tráo và giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả nêu trên cho ông P rồi chiếm đoạt số tiền của ông P là 100.000.000 đồng. Sau đó, ông P mang toàn bộ tài liệu, giấy tờ đến Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B nộp hồ sơ xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì bị phát hiện Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giả.

Ngày 28/4/2020, Ninh Tô R đã thế chấp xe ô tô biển số 51G-X để vay tiền của Ngân hàng O1 chi nhánh Thành phố H; vào ngày 05/4/2019, Ninh Tô R đã thế chấp xe ô tô biển số 51D-X để vay tiền của Ngân hàng S phòng G1, ngân hàng đã giữ bản chính các giấy đăng ký thật các xe này.

Vào ngày 30/5/2020, Ninh Tô R thỏa thuận thế chấp xe ô tô biển số 51G- X và xe ô tô biển số 51D-X cho bà Hứa Thị H, sinh năm 1984, cư trú tại ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre để vay tổng số tiền là 830.000.000 đồng (trong đó thỏa thuận miệng là xe ô tô biển số 51G-X vay thế chấp 600.000.000 đồng, xe ô tô biển số 51D-X vay thế chấp 230.000.000 đồng), thời hạn vay là 01 năm kể từ ngày vay. Hình thức cho vay là bà H giữ các giấy chứng nhận đăng ký xe, còn xe ô tô vẫn giao cho Ninh Tô R sử dụng. Sau khi bà H đưa tiền vay trên thì Ninh Tô R đã giao 02 giấy đăng ký xe giả cho bà H giữ.

Ngày 10/8/2020, Ninh Tô R thỏa thuận và bán xe ô tô biển số 51G-X cho bà H. Khi bà H làm thủ tục rút hồ sơ, sang tên thì bị phát hiện giấy chứng nhận đăng ký xe mà Ninh Tô R đã thế chấp để vay tiền là giả.

Tháng 01/2020,Ninh Tô R đã thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thật của thửa đất số 204 để vay tiền tại Ngân hàng S, phòng G1. Đến tháng 7/2020, Ninh Tô R thỏa thuận mượn của ông Trần Văn T2, sinh năm 1976, cư trú tại Số A, xã V, huyện B số tiền 250.000.000 đồng, đồng thời có đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thửa đất số 204 giả cho ông T2 giữ, mục đích nhờ giới thiệu chuyển nhượng quyền sử dụng đất (bán đất). Khi quá hạn, ông T2 yêu cầu trả nợ thì R trả 100.000.000 đồng cho ông T2. Sau đó ông T2 biết giấy chứng nhận quyền sử dụng đất R giao cho ông giữ là giả nên đã và trình báo sự việc với công an, vì vậy R đã trả tiếp cho ông T2 thêm số tiền 150.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2023/HS-ST ngày 10/3/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre đã tuyên xử:

Tuyên bố bị cáo Ninh Tô R phạm các tội “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”;

Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Ninh Tô R 08 (tám) năm tù về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

Áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Ninh Tô R 02 (hai) năm tù về “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”;

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Ninh Tô R 03 (ba) năm tù về “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Ninh Tô R chấp hành hình phạt chung cho cả 03 tội là 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 21/01/2022.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí, quyền yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.

Ngày 14/3/2023, bị cáo Ninh Tô R có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 22/3/2023, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre ban hành Quyết định kháng nghị số: 02/QĐ-VKSBT-P1 với nội dung đề nghị không áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự và tăng hình phạt đối với bị cáo Ninh Tô R. Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo và Đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và kháng nghị.

Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng bị cáo chỉ phạm “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”, mà không phạm “Tội sử dụng tài liệu giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Vì bị cáo lên mạng xã hội thuê người làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và G đăng ký xe ô tô giả rồi sử dụng vào việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ kháng cáo kháng cáo của bị cáo, tuyên bố bị cáo không phạm “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và xem xét giảm nhẹ cho bị cáo về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Đề nghị không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng nghị của Viện Kiểm sát về việc đề nghị không áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự và tăng hình phạt đối với bị cáo về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ kháng nghị, không áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự và tăng hình phạt đối với bị cáo Ninh Tô R mức án từ 12 lên 13 năm tù về “Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; đề nghị không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Ninh Tô R.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

* Về tố tụng:

[1] Kháng cáo của bị cáo Ninh Tô R và kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre là trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

* Về nội dung:

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như sau: Do cần tiền sử dụng vào mục đích cá nhân nên vào tháng 4/2020, thông qua mạng xã hội, bị cáo đã thuê người làm giả 04 tài liệu, gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thửa đất số 161, tờ bản đồ số 54, địa chỉ thửa đất: xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre và thửa đất số 204, tờ bản đồ số 22, địa chỉ thửa đất: xã Đ, huyện B, tỉnh Bến Tre; giấy chứng nhận đăng ký của xe ô tô biển số 51G- X và xe ô tô biển số 51D-X. Sau khi có các tài liệu giả trên, bị cáo đã sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả của thửa 161 ký hợp đồng chuyển nhượng với ông Phan Đức P để chiếm đoạt số tiền 100.000.000 đồng; sử dụng giấy chứng nhận đăng ký giả của xe ô tô biển số 51G-X và xe ô tô biển số 51D-X đưa cho bà Hứa Thị H để thế chấp vay số tiền 830.000.000 đồng. Tổng số tiền mà Ninh Tô R chiếm đoạt của ông P, bà H là 930.000.000 đồng.

[3] Xét lời khai nêu trên của bị cáo Ninh Tô R là phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với kết luận giám định về tài liệu giả, vật chứng thu giữ được trong vụ án. Nên Tòa án sơ thẩm tuyên bố các hành vi nêu trên của bị cáo Ninh Tô R đã phạm vào 03 tội: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, không làm oan sai đối với bị cáo Ninh Tô R. [4]. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác và xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính của Nhà nước về tài liệu được pháp luật Hình sự bảo vệ. Bị cáo đã sử dụng tài liệu giả để lừa đảo chiếm đoạt số tiền lớn (trên 500.000.000đ), đây là tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo thành người lương thiện và phòng ngừa chung.

* Xét kháng nghị tăng nặng hình phạt đối với bị cáo của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre:

[5]. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ: “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”; “Tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả” (toàn bộ số tiền 930.000.000đ đã chiếm đoạt). Đây là 02 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b và s khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự năm 2015. Ngoài ra bị cáo còn có tình tiết giảm nhẹ là có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, đang nuôi con còn nhỏ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự năm 2015. Như vậy, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Việc Tòa án sơ thẩm áp dụng Điều 54 của Bộ Luật Hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là phù hợp với quy định tại Điều 54 của Bộ Luật Hình sự năm 2015. Mặt khác, bị cáo chiếm đoạt số tiền 930.000.000đ nhưng đã bồi thường toàn bộ cho người bị hại, Tòa án sơ thẩm xử phạt bị cáo 08 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là phù hợp, không nhẹ. Do đó, kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre đề nghị Hội đồng xét xử sửa Bản án sơ thẩm theo hướng không áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự và tăng hình phạt đối với bị cáo Ninh Tô R về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là không có cơ sở chấp nhận.

* Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Ninh Tô R: [6]. Đối với “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, như tại mục [5] đã nhận định: Tòa án sơ thẩm xử phạt bị cáo 08 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là phù hợp. Nên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo về tội này không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7]. Đối với “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm c khoản 2 Điều 341 và “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015: khi lượng hình đối với cả 02 tội, Toà án sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; đang nuôi con nhỏ (con nhỏ sinh năm 2017, con lớn 2019) để xử phạt bị cáo 02 năm tù về “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và 03 năm tù về “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, tương ứng với mức khởi điểm của khung hình phạt là không nặng. Vì vậy, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo về các tội này không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8]. Quan điểm của người bào chữa cho rằng bị cáo không phạm vào “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là không có căn cứ. Bởi lẽ, bị cáo cung cấp các bản chụp giấy chứng chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy đăng ký xe ô tô cho người bị cáo thuê làm giả trên mạng xã hội, sau khi có được các giấy tờ giả bị cáo tiếp tục sử dụng các giấy tờ giả đó vào phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm 03 tội: “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”; “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ, không xét xử oan sai cho bị cáo.

[9]. Vì vậy người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, tuyên bị cáo không phạm “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, giảm hình phạt cho bị cáo về “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là không có căn cứ chấp nhận.

[10]. Quan điểm của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố hồ Chí Minh cho rằng hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành 03 tội: Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; T3 sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức và T3 lừa đảo chiếm đoạt tài sản là có căn cứ chấp nhận.

[11]. Quan điểm của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố hồ Chí Minh đề nghị chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre, không áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự và tăng hình phạt đối với bị cáo Ninh Tô R về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là không có căn cứ chấp nhận.

[12]. Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ của bị cáo Ninh Tô R và kháng nghị tăng nặng của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[13]. Án phí Hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.

[14]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ninh Tô R và kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre, giữ nguyên Bản án Hình sự sơ thẩm số 10/2023/HS-ST ngày 10/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.

Tuyên bố bị cáo Ninh Tố R2 phạm các tội: “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”; “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Ninh Tô R 08 (tám) năm tù về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Ninh Tô R 02 (hai) năm tù về “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”;

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Ninh Tô R 03 (ba) năm tù về “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, buộc bị cáo Ninh Tô R phải chấp hành hình phạt chung của 03 tội là 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21 tháng 01 năm 2022.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Ninh Tô R phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.  

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 837/2023/HS-PT về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:837/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;