TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 68/2023/HS-ST NGÀY 14/12/2023 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 14 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 65/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2023/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:
Trần Nhật H, sinh ngày 07/4/2005 tại xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn Bàn Long; xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc nghề nghiệp: Học sinh; trình độ văn hóa: Lớp 12; dân tộc: Sán Dìu; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn B và bà Lê Thị Kim Th; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại tại địa phương (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do Trần Nhật H, sinh năm 2005, ở xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc có nhu cầu làm Giấy phép lái xe (sau đây viết tắt là GPLX) mô tô hạng A1 giả để sử dụng tham gia giao thông nên ngày 05/4/2023, H sử dụng ĐTDĐ Iphone 6 của mình vào mạng xã hội Facebook thì thấy tài khoản Facebook “Trung tâm sát hạch lái xe”, H vào mục bình luận của tài khoản này thì có 01 phụ nữ lạ mặt nhắn tin qua ứng dụng Messenger (H không nhớ tên tài khoản của người phụ nữ này), người này giới thiệu và gửi cho H số điện thoại của người làm GPLX giả (H không nhớ số điện thoại này). Sau đó, H liên lạc qua Zalo với một người đàn ông lạ mặt là chủ tài khoản Zalo có tên “Thầy Thanh sát hạch lái xe”, H đặt làm 01 GPLX mô tô hạng A1 giả với giá 2.000.000đ, người đàn ông này hẹn H 03 - 05 ngày sau sẽ giao GPLX giả, H và người này thống nhất sau khi nhận GPLX giả thì thanh toán tiền. Sau đó, H cung cấp thông tin cá nhân của mình cho người đàn ông này. Khoảng 17 giờ ngày 10/4/2023, H nhận được điện thoại của anh Trịnh Anh A, sinh năm 1995 ở TDP. Giữa, thị trấn Tr, huyện D là nhân viên của Công ty cổ phần giao hàng tiết kiệm thông báo có bưu phẩm. Sau đó, H gặp và được anh A giao cho 01 gói bưu phẩm thì H thanh toán bằng hình thức chuyển khoản cho anh A số tiền 2.030.000đ rồi cầm gói bưu phẩm về nhà kiểm tra thấy bên trong bưu phẩm có 01 GPLX mô tô hạng A1 giả H đặt làm trước đó và 01 bộ hồ sơ thi sát hạch lái xe. Đến khoảng 22 giờ ngày 14/5/2023, khi H điều khiển xe máy BKS 88E1 - 165.2x chở bạn là anh Trần Đại Ng, sinh năm 2005, ở thị trấn Ch, huyện T đi chơi trên Quốc lộ 2B đến TDP Đồi Thông, thị trấn C, huyện T thì bị tổ công tác Công an tỉnh Vĩnh Phúc phối hợp với Công an huyện Tam Đảo kiểm tra hành chính, phát hiện, lập biên bản sự việc. Tang vật thu giữ: 01 GPLX mô tô hạng A1 số 260230003xx5, do Sở Giao thông vận tải tỉnh Vĩnh Phúc cấp ngày 10/3/2023, mang tên Trần Nhật H, sinh ngày 07/4/2005, ở thôn Bàn Long, xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, niêm phong ký hiệu A1, tạm giữ của H 01 ĐTDĐ Iphone 6; 01 xe máy BKS: 88E1 - 165.2x cùng đăng ký mang tên Ngô Chí N.
Quá trình điều tra, H giao nộp cho CQĐT: 01 giấy khám sức khỏe của người lái xe; 01 biên bản tổng hợp kết quả sát hạch lái xe; 01 đơn đề nghị học, sát hạch để cấp giấy lái xe đều mang tên Trần Nhật H.
Quá trình điều tra, CQĐT tiến hành xác minh tại Sở giao thông vận tải tỉnh Vĩnh Phúc, xác định: Sở giao thông vận tải tỉnh Vĩnh Phúc không cấp giấy phép lái xe số 260230003xx5 ngày 10/3/2023 cho Trần Nhật H, Sở giao thông vận tải tỉnh Vĩnh Phúc cung cấp cho CQĐT mẫu GPLX hạng B2, do Sở giao thông vận tải tỉnh Vĩnh Phúc cấp ngày 24/3/2023, số 2602xx002427, đề tên Trần Văn V, sinh ngày 06/8/1992, ở xã Q, huyện S, niêm phong ký hiệu M1 để phục vụ công tác giám định.
Tại bản Kết luận giám định số 1881 ngày 01/7/2023, phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận: “Giấy phép lái xe, số 260230003xx5 hạng A1, họ tên Trần Nhật H, sinh ngày 07/4/2005, Quốc tịch: Việt Nam, nơi cư trú: Thôn Bàn Long, xã M, huyện Tam Đ, tỉnh Vĩnh Phúc, ngày cấp: 10/3/2023 (ký hiệu A1) là giấy phép lái xe giả.
Tại bản Kết luận giám định số 1778 ngày 23/6/2023, phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận đối với chiếc ĐTDĐ Iphone 6 thu giữ của H “Khôi phục, trích xuất được dữ liệu đối với mẫu vật gửi giám định. Qua phân tích, tìm kiếm dữ liệu trong thời gian từ ngày 01/4/2023 đến ngày 15/5/2023 thu được kết quả: 201 cuộc gọi, 113 tin nhắn SMS; Không tìm thấy dữ liệu là tin nhắn ứng dụng Zalo với tài khoản Zalo tên “Thầy Thanh sát hạch lái xe”; chụp được 67 ảnh chụp màn hình điện thoại thể hiện tin nhắn ứng dụng Facebook Mesenger. Toàn bộ dữ liệu được in thành văn bản”.
Quá trình điều tra H khai chỉ trao đổi làm 01 GPLX mô tô hạng A1 giả còn bộ hồ sơ thi sát hạch lái xe gồm: 01 giấy khám sức khỏe của người lái xe mang tên Trần Nhật H; 01 biên bản tổng hợp kết quả sát hạch lái xe; 01 đơn đề nghị học, sát hạch để cấp giấy lái xe do đối tượng làm giả tự gửi kèm theo.
Đối với người phụ nữ giới thiệu và cho H số điện thoại của đối tượng làm giả GPLX và người đàn ông làm giả GPLX mô tô hạng A1 cho H, quá trình điều tra H khai không biết tên tuổi, địa chỉ, không nhớ tên tài khoản Facebook của người phụ nữ này còn đối với người đàn ông làm giả GPLX mô tô hạng A1 cho H, H khai không biết tên tuổi, địa chỉ, không nhớ số điện thoại của người đàn ông này nên CQĐT không có căn cứ điều tra, xử lý trong vụ án này, CQĐT tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.
Đối với anh Trịnh Anh A là nhân viên Công ty cổ phần giao hàng tiết kiệm, quá trình điều tra xác định ngày 10/4/2023, sau khi giao cho H gói bưu phẩm bên ngoài bao bì ghi “sách” và được H chuyển khoản số tiền 2.030.000đ, anh A đã chuyển khoản cho chị Lâm Thị L, sinh năm 1997 ở thôn Làng Mấu, xã U, huyện T là nhân viên Công ty cổ phần giao hàng tiết kiệm, sau đó chị L đã chuyển số tiền trên về Công ty Công ty cổ phần giao hàng tiết kiệm. Bản thân anh A, chị L không biết trong bưu phẩm có tài liệu giả, anh A, chị L không trao đổi, thỏa thuận gì với H và người gửi bưu phẩm cho H nên CQĐT không đề cập xử lý là có căn cứ.
Ngày 24/8/2023, CQĐT có văn bản yêu cầu Công ty Công ty cổ phần giao hàng tiết kiệm cung cấp thông tin người gửi gói bưu phẩm cho Trần Nhật H vào ngày 10/4/2023. Ngày 15/9/2023, Công ty Công ty cổ phần giao hàng tiết kiệm có văn bản trả lời: Ngày 10/4/2023, Công ty Công ty cổ phần giao hàng tiết kiệm không có vận đơn nào của người gửi cho người nhận là Trần Nhật H, ở thôn Bàn Long, xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc.
Đối với Trần Đại Ng là người đi chơi cùng H vào buổi tối ngày 14/5/2023, quá trình điều tra xác định anh Ng không biết H sử dụng GPLX giả nên CQĐT không đề cập xử lý là có căn cứ.
Về vật chứng của vụ án:
- 01 GPLX mô tô hạng A1 giả, số 260230003xx5 mang tên Trần Nhật H và 01 bộ hồ sơ thi sát hạch lái xe gồm: 01 giấy khám sức khỏe của người lái xe, 01 biên bản tổng hợp kết quả sát hạch lái xe, 01 đơn đề nghị học, sát hạch để cấp giấy lái xe đều mang tên Trần Nhật H là tài liệu chứng minh tội phạm cần lưu giữ trong hồ sơ vụ án, CQĐT chuyển theo hồ sơ vụ án.
- 01 ĐTDĐ Iphone 6, màu vàng bên trong có gắn sim, thu giữ của H là phương tiện H sử dụng liên lạc phạm tội cần tịch thu bán sung quỹ nhà nước, đối với 01 thẻ sim điện thoại cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Exiter màu xanh, BKS: 88E1- 165.2x cùng giấy tờ xe, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Ngô Chí N, sinh năm 1992 ở xã M, huyện T. Buổi tối ngày 14/5/2023, anh N cho H mượn xe máy để đi chơi, không biết H sử dụng GPLX mô tô giả nên CQĐT đã trả lại anh N chiếc xe máy trên cùng giấy tờ xe là đúng chủ sở hữu.
- Đối với mẫu GPLX hạng B2, do Sở giao thông vận tải tỉnh Vĩnh Phúc cấp ngày 24/3/2023, số 2602xx002427, đề tên Trần Văn V, sinh ngày 06/8/1992, ở xã Q, huyện S, CQĐT đã trả lại Sở giao thông vận tải tỉnh Vĩnh Phúc.
Tại CQĐT, Trần Nhật H đã thành khẩn khai nhận rõ hành vi phạm tội của bản thân như nêu trên.
Tại bản Cáo trạng số: 68/CT-VKSTĐ ngày 23 tháng 11 năm 2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo truy tố bị cáo Trần Nhật H về tội “Sử dụng… tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Nhật H phạm tội “Sử dụng… tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2 và 5 Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 92 Luật thi hành án hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Nhật H từ 6 tháng đến 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thử thách từ 01 năm đến 01 năm 6 tháng Về hình phạt bổ sung: Bị cáo hiện đang là học sinh không có nghề nghiệp nên không áp dụng.
Về vật chứng: 01 GPLX mô tô hạng A1 giả, số 260230003xx5 mang tên Trần Nhật H và 01 bộ hồ sơ thi sát hạch lái xe gồm: 01 giấy khám sức khỏe của người lái xe, 01 biên bản tổng hợp kết quả sát hạch lái xe, 01 đơn đề nghị học, sát hạch để cấp giấy lái xe đều mang tên Trần Nhật H là tài liệu chứng minh tội phạm cần lưu giữ trong hồ sơ vụ án, CQĐT chuyển theo hồ sơ vụ án.
- 01 ĐTDĐ Iphone 6, màu vàng bên trong có gắn sim, thu giữ của H là phương tiện H sử dụng liên lạc phạm tội cần tịch thu bán sung quỹ nhà nước, đối với 01 thẻ sim điện thoại cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Exiter màu xanh, BKS: 88E1- 165.2x cùng giấy tờ xe, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Ngô Chí N, sinh năm 1992 ở xã M, huyện T. Buổi tối ngày 14/5/2023, anh N cho H mượn xe máy để đi chơi, không biết H sử dụng GPLX mô tô giả nên CQĐT đã trả lại anh N chiếc xe máy trên cùng giấy tờ xe là đúng chủ sở hữu.
- Đối với mẫu GPLX hạng B2, do Sở giao thông vận tải tỉnh Vĩnh Phúc cấp ngày 24/3/2023, số 2602xx002427, đề tên Trần Văn V, sinh ngày 06/8/1992, ở xã Q, huyện S, CQĐT đã trả lại Sở giao thông vận tải tỉnh Vĩnh Phúc.
Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo vì bị cáo hiện đang là học sinh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo Trần Nhật H thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố: Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ và kết quả tranh tụng thẩm tra chứng cứ tại phiên toà, nên có đủ căn cứ để chứng minh và kết luận:
Do không có Giấy phép lái xe và có nhu cầu làm Giấy phép lái xe mô tô hạng A1 giả để sử dụng tham gia giao thông nên ngày 05/4/2023, Trần Nhật H liên lạc qua mạng xã hội Zalo với một người đàn ông lạ mặt là chủ tài khoản Zalo “Thầy Thanh sát hạch lái xe” đặt làm 01 Giấy phép lái xe mô tô hạng A1 giả với giá 2.000.000đ, H cung cấp thông tin cá nhân liên quan cho người này. Ngày 10/4/2023, H nhận được Giấy phép lái xe mô tô hạng A1 giả. Đến khoảng 22 giờ ngày 14/5/2023, khi H điều khiển xe máy đi trên Quốc lộ 2B đến khu vực tại khu vực tổ dân phố Đồi Thông, thị trấn C, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc thì bị tổ công tác công an tỉnh Vĩnh Phúc phối hợp với Công an huyện Tam Đảo phát hiện, thu giữ 01 Giấy phép lái xe mô tô hạng A1 mang tên Trần Nhật H. Kết quả giám định, Giấy phép lái xe mô tô mà H sử dụng là tài liệu giả.
[3] Hành vi nêu trên của bị cáo Trần Nhật H đã phạm vào tội “Sử dụng… tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 của Bộ luật hình sự. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự như sau:
"1. Người nào .... sử dụng … tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm.”.
[4] Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, nhưng hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính của Nhà nước, nên cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
Khi quyết định hình phạt: Hội đồng xét xử có xem xét đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: Trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân tốt, bản thân chưa có tiền án, tiền sự. Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo hiện đang là học sinh, lần đầu bị xử lý trước pháp luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, do vậy không cần thiết cách ly bị cáo khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo cải tạo tại địa phương cũng đủ để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo đề nghị về mức hình phạt xử lý vật chứng là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo hiện đang là học sinh không có thu nhập nên không áp dụng khoản 4 Điều 341 Bộ luật hình sự để phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Đối với 01 Giấy phép lái xe mô tô hạng A1 giả, số 260230003xx5 mang tên Trần Nhật H và 01 bộ hồ sơ thi sát hạch lái xe gồm: 01 giấy khám sức khỏe của người lái xe, 01 biên bản tổng hợp kết quả sát hạch lái xe, 01 đơn đề nghị học, sát hạch để cấp giấy lái xe đều mang tên Trần Nhật H là tài liệu chứng minh tội phạm nên cần lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
Đối với 01 điện thoại di động Iphone 6, màu vàng thu giữ của H là phương tiện H sử dụng liên lạc phạm tội cần tịch thu bán sung ngân sách Nhà nước. Đối với 01 thẻ sim điện thoại có số IMEI 358360061923344 cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Exiter màu xanh, BKS: 88E1- 165.2x cùng giấy tờ xe, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Ngô Chí N cho H mượn để đi chơi, không biết H sử dụng Giấy phép lái xe mô tô giả nên cơ quan điều tra đã trả lại cho anh N chiếc xe máy trên cùng giấy tờ xe, anh N không có ý kiến gì nên Tòa án không xem xét.
[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Nhật H phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Trần Nhật H phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Căn cứ khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2 và 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Trần Nhật H 06 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 01 (Một) năm, thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Trần Nhật H cho Ủy ban nhân dân xã Minh Quang, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc quản lý, giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp bị cáo Trần Nhật H có thay đổi về nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu 01 điện thoại di động Iphone 6 màu vàng của bị cáo Trần Nhật H để bán sung ngân sách Nhà nước, đối với 01 thẻ sim điện thoại có số IMEI 358360061923344 cần tịch thu tiêu hủy. (Vật chứng trên theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 06 tháng 12 năm 2023 giữa Cơ quan Công an huyện Tam Đảo với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Đảo).
Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trần Nhật H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân cấp trên để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Bản án 68/2023/HS-ST về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức
Số hiệu: | 68/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/12/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về