TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 55/2021/HS-ST NGÀY 21/05/2021 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 21 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 30/2021/TLST- HS ngày 07 tháng 4 năm 2021; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2021/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:
Trần Đức T, sinh ngày 05-7-1972, tại tỉnh Tây Ninh; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: Khu phố M, Phường M, thành phố TN, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không có; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn B, sinh năm 1940 (đã chết) và bà Đỗ Thị H, sinh năm 1947 (đã chết); Vợ: Bà Lê Trang Bích H, sinh năm 1987; có 02 người con: lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: chưa bị Cơ quan nào xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị kết án về tội nào; Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do có nhu cầu mua xe ô tô trả góp nên ngày 10-5-2018, Trần Đức T cùng vợ là Lê Trang Bích H ký hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế Việt Nam (tên giao dịch là ngân hàng VIB) chi nhánh Tây Ninh vay số tiền 790.000.000 đồng, thời hạn vay là 60 tháng để mua xe ô tô Chevrolet Tralibalzer biển số 70A-157.50, cũng là tài sản bảo đảm hợp đồng tín dụng. Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số 70A-157.50, tên chủ xe Trần Đức T do Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tây Ninh cấp ngày 10- 5-2018 được ngân hàng VIB giữ bản chính để bảo đảm khoản tiền vay và cứ 03 tháng một lần, ngân hàng sẽ cung cấp bản sao y giấy chứng nhận đăng ký xe cho khách hàng sử dụng. Khi T thanh toán xong hợp đồng tín dụng, ngân hàng sẽ hoàn trả lại bản chính.
Tháng 4-2020, Trần Đức T nhận được tin nhắn qua điện thoại với nội dung quảng cáo làm giấy tờ giả; do thường xuyên sử dụng xe ô tô biển số 70A 157.50 đi làm ăn trong và ngoài tỉnh và thường hay quên đến ngân hàng lấy giấy chứng nhận đăng ký xe bản sao nên T nảy sinh ý định đặt làm giấy giả nhằm mục đích xuất trình giấy tờ khi bị cơ quan chức năng kiểm tra. Sau đó, T gọi đến số điện thoại quảng cáo và được người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) hẹn gặp nhau tại ngã 3 đường Nguyễn Chí Thanh và đường Lê Duẫn thuộc Phường 3, thành phố Tây Ninh để T cung cấp bản sao giấy chứng nhận đăng ký xe.
Khoảng 04 ngày sau, người đẫn ông điện thoại báo cho T biết giấy xe giả đã làm xong và hẹn gặp chỗ cũ. T đến nơi hẹn nhận giấy chứng nhận đăng ký ô tô biển số 704-157.50 giả và trả tiền công 1.000.000 đồng theo như thoả thuận. T đem giấy chứng nhận đăng ký xe giả để trong xe ô tô biển số 70A-157.50 nhằm mục đích phòng hờ sẵn giấy tờ cần thiết khi bị cơ quan chức năng kiểm tra, T có đầy đủ giấy tờ để xuất trình, không phải bị nộp phạt.
Lúc 8 giờ sáng ngày 03-12-2020, Trần Đức T điều khiển xe ô tô biển số 70A-157.50 đến Trung tâm đăng kiểm 7001S Tây Ninh thuộc khu phố NT, phường NS, thành phố TN và đưa giấy tờ xe để làm thủ tục kiểm định. Khi tiến hành làm thủ tục đăng kiểm, nhân viên Trung tâm phát hiện giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số 70A-157.50 có dấu hiệu là giấy giả nên trình báo Công an thành phố Tây Ninh thụ lý giải quyết.
Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tây Ninh, Trần Đức T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Kết luận giám định số 1937/KL-KTHS ngày 22-12-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự kết luận:
+ Mẫu giấy “CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ XE Ô TÔ” SỐ 022978, tên chủ xe Trần Đức T, sinh năm 1972, ngụ Khu phố 1, Phường 1, thành phố Tây Ninh, biển số đăng ký 70A-157.50 ngày 10-5-2018 cần giám định là mẫu giấy Chứng nhận đăng ký xe ô tô giả được in bằng phương pháp in phun màu.
+ Chữ ký mang tên Trung tá Phan Văn Triều trên giấy “CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ XE Ô TÔ” SỐ 022978, tên chủ xe Trần Đức T, sinh năm 1972, ngụ Khu phố 1, Phường 1, thành phố Tây Ninh, biển số đăng ký 70A-157.50 ngày 10-5-2018 với chữ ký của Trung tá Phan Văn Triều - Trưởng phòng CSGT Công an tỉnh Tây Ninh không phải do cùng một người ký ra.
+ Hình dấu trên giấy “CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ XE Ô TÔ” SỐ 022978, tên chủ xe Trần Đức T, sinh năm 1972, ngụ Khu phố M, Phường M, thành phố TN, biển số đăng ký 70A-157.50 ngày 10-5-2018 với hình dấu của Phòng CSGT Công an tỉnh Tây Ninh không phải do cùng một con dấu đóng ra.
* Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: giấy “CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ XE Ô TÔ” Số 022978, tên chủ xe Trần Đức T, sinh năm 1972, ngụ Khu phố 1, Phường 1, thành phố Tây Ninh, biển số đăng ký 70A-157.50 là giấy giả được chuyển theo hồ sơ vụ án.
* Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tây Ninh đã áp dụng biện pháp cưỡng chế phong toả tài khoản đối với số tiền 116.500.000 đồng trong tài khoản của Trần Đức T tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế (VIB)-chi nhánh Tây Ninh.
Đối với người đàn ông làm giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô giả cho Trần Đức T, do không rõ họ tên, địa chỉ, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tây Ninh chưa làm việc được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau. Đối với và Lê Trang Bích H (vợ Trần Đức T) là đồng chủ sở hữu xe ô tô biển số 70A-157.50 nhưng không biết việc T sử dụng giấy tờ giả của cơ quan nên không xem xét giải quyết.
Bản Cáo trạng số: 32/CT-VKSTPTN ngày 06-4-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Trần Đức T về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Ngày 03-12-2020, tại Trung tâm đăng kiểm 700S1 thuộc khu phố NT, phường NS, thành phố TN, Trần Đức T đã sử dụng giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số 70A-157.50 là giấy giả để làm thủ tục đăng kiểm xe thì bị phát hiện xử lý.
Hành vi của Trần Đức T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của Nhà nước nên phải chịu trách nhiệm hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Đức T phạm tội: “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Căn cứ khoản 1 Điều 341, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Đức T 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.
Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định.
Bị cáo không tham gia tranh luận.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất ăn năn, hối cải về hành vi của bị cáo nên xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Tây Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo: Xét thấy quan điểm và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát trong phần tranh tụng tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án và đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:
Tháng 4-2020, Trần Đức T thuê người làm giấy chứng nhận đăng ký xe giả đối với xe ô tô biển số 70A-157.50 với giá 1.000.000 đồng nhằm mục đích phòng hờ sẵn giấy tờ cần thiết khi bị cơ quan chức năng kiểm tra, T có đầy đủ giấy tờ để xuất trình, không phải bị nộp phạt do bản chính đã thế chấp tại Ngân hàng VIB. Ngày 03-12-2020, tại Trung tâm đăng kiểm 700S1 thuộc khu phố nt, phường NS, thành phố TN, T đã sử dụng giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số 70A-157.50 là giấy giả để làm thủ tục đăng kiểm xe thì bị phát hiện. Do đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Đức T phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của Nhà nước nên phải chịu trách nhiệm hình sự.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và có thái độ ăn năn, hối cải nên cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt.
Xét thấy bị cáo có 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo có nhân thân tốt. Bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xa hội cũng có tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo.
[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 4 Điều 341 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Bị cáo là lao động chính trong gia đình, hiện còn nợ Ngân hàng VIB nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: 01 “Chứng nhận đăng ký xe ô tô” số 022978, tên chủ xe Trần Đức T, sinh năm 1972, ngụ Khu phố M, Phường M, thành phố TN, biển số đăng ký 70A-157.70 là giấy tờ giả tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án.
[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Trần Đức T phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 341; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Đức T số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng.
2. Xử lý đối với các tài sản kê biên: Căn cứ Điều 129 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tiếp tục phong tỏa tài khoản của bị cáo Trần Đức T theo Lệnh phong tỏa tài khoản số 01/LPTTK ngày 22-3-2021 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tây Ninh để đảm bảo thi hành án.
3. Về xử lý vật chứng: 01 Giấy Chứng nhận đăng ký xe ô tô số 022978, tên chủ xe Trần Đức T, sinh năm 1972, ngụ Khu phố M, Phường M, thành phố TN, biển số đăng ký 70A-157.70 tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án.
4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Khoản 2 Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
Bị cáo Trần Đức T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 55/2021/HS-ST
Số hiệu: | 55/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về