Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 211/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 211/2024/HS-ST NGÀY 30/09/2024 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 30 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 175/2024/TLST-HS ngày 22/8/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 189/2024/QĐXXST-HS ngày 05/9/2024 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 09/7/1998 tại Gia Lai; Nghề nghiệp: Lái xe; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: 80 đường N, Tổ 04, phường C, thành phố P, tỉnh G; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc Q (đã chết) và bà Trần Thị X; Bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bà Lê Thị Ngọc A, sinh năm 2001; Địa chỉ: Tổ 08, phường I, thành phố P, tỉnh G. Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt.

- Ông Nguyễn Thanh B, sinh năm 1996; Địa chỉ: 56 đường Q, phường Q, thành phố K, tỉnh T. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 7 năm 2020, thông qua mạng xã hội Facebook, Nguyễn Ngọc T biết tài khoản Facebook của anh Nguyễn Thanh B (sinh năm 1996, trú tại số 56 đường Lạc Long Quân, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum) đăng bán 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh - đen, biển số 82B1-xxxx. Thấy vậy, T nhắn tin cho anh B1 qua ứng dụng Messengger để thống nhất giá cả, cách thức mua bán và hẹn gặp nhau để giao dịch. Vì xe mô tô này được anh Nguyễn Thanh B1 mua trả góp tại cửa hàng xe máy Vĩnh Hưng (thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum) nên giấy Chứng nhận đăng ký bản gốc do Công ty tài chính FE Credit giữ. Do đó, anh B1 đồng ý bán cho T chiếc xe mô tô Exciter, biển số 82B1-xxxx với giá 33.000.000 đồng và thoả thuận với T: T đưa trước cho anh B1 số tiền 20.000.000 đồng rồi nhận xe mô tô cùng giấy chứng nhận đăng ký xe bản photo có công chứng; số tiền còn lại, sau khi anh B1 giải quyết xong việc vay trả góp chiếc xe thì T sẽ thanh toán cho anh B1 và tiến hành sang tên chủ sở hữu đối với chiếc xe. Sau khi thực hiện việc mua bán chiếc xe trên thì giữa T và anh B1 không liên lạc được với nhau. Đến khoảng thời gian giữa năm 2022, do muốn có Giấy chứng nhận đăng ký xe để sử dụng khi tham gia giao thông, T vào mạng xã hội Facebook thì thấy có tài khoản Facebook (không nhớ rõ tên) nhận làm Giấy đăng ký xe giả nên T đã nhắn tin qua ứng dụng Messengger để đặt làm Giấy đăng ký xe cho xe mô tô, xe máy số 080972 tên Nguyễn Thanh B1, địa chỉ: 56 Lạc Long Quân, thành phố Kon Tum, nhãn hiệu Yamaha, màu sơn xanh đen, số loại Exciter, số máy G3D4E1012067, số khung 1010KY241033, biển số 82B1-xxxx. Sau khi cung cấp thông tin như trên, hai bên thống nhất tầm 3 – 4 ngày sẽ giao Giấy chứng nhận đăng ký xe qua đường bưu điện, T sẽ thanh toán cho bên dịch vụ 1.200.000 đồng. Khoảng 3 đến 4 ngày, có người bên dịch vụ giao hàng (không nhớ dịch vụ nào) đến nhà của T giao Giấy chứng nhận đăng ký xe có họ tên, địa chỉ như T đã đặt làm. Vì thời điểm giao giấy chứng nhận đăng ký xe trên, T đang đi làm tại nước Lào nên T đến dịch vụ chuyển tiền của tỉnh Attapư tại nước Lào chuyển tiền đến tài khoản mà tài khoản Facebook trên cung cấp (T không còn nhớ địa điểm và tên của dịch vụ này). Sau đó, T đã cất giữ Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô này để sử dụng hàng ngày khi tham gia giao thông.

Vào ngày 10/7/2023, Nguyễn Ngọc T cho Lê Thị Ngọc A1 là bạn của T mượn xe để sử dụng. Khi giao xe mô tô biển số 82B1-xxxx cho A1 mượn thì T nói với A1 giấy tờ xe T để trong cốp xe, có việc thì lấy ra để xuất trình. Tối ngày 13/7/2023, khi A1 điều khiển xe mô tô đi trên đường Nguyễn Tất Thành, thành phố Pleiku thì bị Tổ tuần tra kiểm soát của đội Cảnh sát giao thông, trật tự - Công an thành phố Pleiku kiểm tra giấy tờ; lúc này, A1 đã lấy Giấy chứng nhận đăng ký xe trong cốp xe ra xuất trình. Qua kiểm tra, nghi Giấy chứng nhận đăng ký xe này là giả nên lực lượng Công an đã tiến hành lập biên bản tạm giữ: 01 xe mô tô biển số 82B1-xxxx (số máy: G3D4E1012067; Số khung: RLCUG1010KY241033); 01 (một) “CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ XE MÔ TÔ, XE MÁY”, số: 080972; tên chủ xe: Nguyễn Thanh B1; địa chỉ: 56 Lạc Long Quân, TP.Kon Tum; đề ngày 12/02/2020; 01 Giấy phép lái xe hạng A1 số 64122901xxxx tên Lê Thị Ngọc A1. Sau đó, vụ việc được chuyển đến Cơ quan điều tra Công an thành phố Pleiku để điều tra, xử lý.

Tại bản Kết luận giám định số 647/KL-KTHS ngày 24/7/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: “GIẤY CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ XE MÔ TÔ, XE MÁY”, số: 080972, mẫu cần giám định (ký hiệu A) là giả” (Bút lục số 23, 24).

Tại bản Kết luận giám định số 622/KL-KTHS ngày 26/6/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai kết luận: “Xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, số loại EXCITER, BKS: 82B1-xxxx. Trước giám định: Số máy: G3D4E1012067. Các chữ, số thẳng hàng, sắc nét; Số khung: RLCUG1010KY241033. Các chữ, số thẳng hàng, sắc nét. Sau giám định: Số máy nguyên Ty: G3D4E1012067. Không phát hiện cắt, hàn, tẩy xóa, đục lại; Số khung nguyên Ty: RLCUG1010KY241033. Không phát hiện cắt, hàn, tẩy xóa, đục lại”.

Đối với 01 (một) “CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ XE MÔ TÔ, XE MÁY”, số: 080972; tên chủ xe: Nguyễn Thanh B1; địa chỉ: 56 Lạc Long Quân, TP.Kon Tum; đề ngày 12/02/2020 là tài liệu giả, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku lưu tại hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số: 189/CT-VKS ngày 19/8/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc T về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”; đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 65 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T từ 06 tháng đến 09 tháng tù cho bị cáo được hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng; Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Pleiku, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, T tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án này đều hợp pháp.

[2] Bị cáo thừa nhận đã lên mạng Facebook Mesenger cung cấp thông tin và đặt làm giả giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, điều này phù hợp với thông tin trong giấy tờ giả và sau đó đã sử dụng giấy tờ giả làm phương tiện đi lại để đối phó với cơ quan Cảnh sát giao thông. Hành vi này của bị cáo đã thỏa mãn dấu hiệu của tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại Điều 341 của Bộ luật Hình sự.

[3] Bị cáo có nhân thân tốt. Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, nguy hiểm cho xã hội, nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính nhà nước, xâm phạm quyền sở hữu về tài sản và trật tự trị an xã hội. Xét bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do đó, xét thấy dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình, bị cáo có khả năng tự rèn luyện, cải tạo trở thành công dân tốt. Vì vậy, áp dụng hình phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục và răn đe.

[5] Đối với Lê Thị Ngọc A, khi được Nguyễn Ngọc T giao xe cùng Giấy chứng nhận đăng ký xe để đi thì A1 không biết Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 080972 mang tên Nguyễn Thanh B1 là giả nên không đủ căn cứ để xử lý.

[6] Đối với đối tượng mà Nguyễn Ngọc T khai đã đặt làm giả Giấy chứng nhận đăng ký xe, do T không nhớ tên tài khoản trang Facebook đã đặt làm và không nhớ tài khoản gửi tiền và địa điểm đã chuyển tiền nên chưa có cơ sở để điều tra, xử lý. Do đó. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

[7] Đối với xe mô tô biển số 81B1 - xxxx, quá trình điều tra bị cáo T không cung cấp được giấy tờ có liên quan nên Công an thành phố Pleiku tiếp tục tạm giữ để xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65, Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T 06 (Sáu) tháng tù cho bị cáo được hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 30 tháng 9 năm 2024).

Giao bị cáo Nguyễn Ngọc T cho Ủy ban nhân dân phường Chi Lăng, tỉnh Gia Lai giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, áp dụng khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (30/9/2024), bị cáo, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử lại theo T tục phúc thẩm. Thời hạn trên đối với người vắng mặt tại phiên tòa là kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 211/2024/HS-ST

Số hiệu:211/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;