Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 175/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 175/2023/HS-ST NGÀY 07/12/2023 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 07/12/2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 193/2023/HSST ngày 13/11/2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 183/2023/QĐXX ST-HS ngày 23/11/2023 đối với bị cáo:

LÊ L, sinh năm 1991, tại Phú Thọ. Nơi đăng ký thường trú: Khu X, xã P, huyện C, tỉnh Phú Thọ. Nơi cư trú: khu phố 1, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12. Con ông Lê Đại T, sinh năm 1942 và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1948. Anh, chị, em ruột: Có 08 anh, chị, em ruột, lớn nhất sinh năm 1972, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình. Vợ tên Nguyễn Thị H, sinh năm 1993, có 03 con, lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2021. Tiền án: không; tiền sự: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 09/8/2023 cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Lê L chưa có giấy phép lái xe ô tô theo quy định, nhưng lại muốn điều khiển xe ôtô. Bị cáo L tìm trên mạng xã hội rồi liên hệ bằng tin nhắn Messenger thì được tư vấn và thỏa thuận làm Giấy phép lái xe B2 với giá 4.500.000 đồng. Sau đó, bị cáo L cung cấp hình ảnh, Căn cước công dân và địa chỉ của mình cho người nhận làm Giấy phép lái xe B2 qua ứng dụng Messenger. Khoảng một tuần sau, có nhân viên giao hàng tìm đến giao phong bì chứa Giấy phép lái xe số 25023001X9 hạng B2 mang tên Lê L, đề ngày 30/01/2023 cho L, L kiểm tra đúng Giấy phép lái xe hạng B2 L đã đặt làm nên L thanh toán cho người giao hàng số tiền 4.500.000 đồng.

Tháng 05/2023, bị cáo L được anh vợ là Nguyễn Đức C, sinh năm 1991, cư trú tại khu 7, xã T, huyện C, tỉnh Phú Thọ cho mượn xe ôtô con mang biển số 19A- X để sử dụng làm phương tiện đi lại. Khoảng 22 giờ 40 phút, ngày 28/05/2023 khi L đang điều khiển xe ôtô trên đến khu vực phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai thì bị Tổ tuần tra giao thông Công an thành phố Long Khánh yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Bị cáo L đã lấy giấy phép lái xe đặt làm được xuất trình cho Tổ tuần tra. Tổ tuần tra nghi ngờ L sử dụng giấy phép lái xe giả nên đã chuyển vụ việc cho Cơ quan cảnh sát điều tra để làm rõ.

Tại Kết luận giám định số 1299/KL- KTHS, ngày 20/07/2023, phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận: 01 giấy phép lái xe, hạng B2, số 25023001X9, mang họ tên Lê L, đề ngày 30/01/2023 là giả.

Vật chứng thu giữ: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh thu giữ 01 giấy phép lái xe, hạng B2, số 25023001X9, họ tên Lê L, đề ngày 30/01/2023.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo L thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số: 175/CT-VKS-HS ngày 09/11/2023 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Lê L phạm vào tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành Long Khánh, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt:

- Áp dụng điểm khoản 1 Điều 341, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015. Xử phạt: Bị cáo Lê L từ 06 tháng đến 01 năm tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách theo quy định của pháp luật.

Đề nghị giao bị cáo Lê L cho Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Nai giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Về tang vật thu giữ và xử lý vật chứng: 01 giấy phép lái xe, hạng B2, số 25023001X9, họ tên Lê L, đề ngày 30/01/2023. Đề nghị tiếp tục lưu hồ sơ vụ án.

Về phần dân sự: Không.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khẳng định khai báo tự nguyện, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do mình thực hiện như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, lời khai nhận tội này phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Khoảng 22 giờ 40 phút, ngày 28/05/2023, trên đường Nguyễn Thị Minh Khai, thuộc phường Xuân An, thành phố Long Khánh, bị cáo Lê L đang điều khiển xe ôtô con mang biển số 19A- X lưu thông trên đường, có dấu hiệu vi phạm giao thông nên bị Tổ tuần tra giao thông Công an thành phố Long Khánh yêu cầu dừng xe kiểm tra, thì phát hiện bị cáo L sử dụng giấy phép lái xe hạng B2, số 25023001X9 mang họ tên Lê L được làm giả để tham gia giao thông.

Hành vi nêu trên của bị cáo Lê L đã phạm vào tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực tự điều khiển hành vi của mình; nhận thức được những việc làm đúng, sai, những việc pháp luật nghiêm cấm; nhận thức được hành vi làm giả, sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức là vi phạm pháp luật. Dù bản thân chưa tham gia học, thi để được cấp giấy phép lái xe ô tô nhưng vì muốn điều khiển ô tô tham gia giao thông mà bị cáo đã liên hệ trên mạng xã hội facebook đặt mua giấy phép là xe giả để sử dụng nhằm đối phó với cơ quan chức năng khi tham gia giao thông. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước về con dấu, tài liệu. Hành vi này tiềm ẩn nguy cơ gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Do đó, cần có mức hình phạt đủ nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi của các bị cáo đã thực hiện, nhằm giáo dục bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật và có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

4 Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và quyết định mức hình phạt đối với bị cáo:

Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật đình sự; Bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thực sự ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình. Ngoài ra, bị cáo có cha là ông Lê Đại T là người có công với Cách mạng là Thương binh; bản thân bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, đang nuôi 03 con nhỏ, con lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2021. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Ngoài ra, tại phiên tòa bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào khác.

Căn cứ tính chất và mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy, cần xử bị cáo Lê L ở mức khởi điểm của khung hình phạt tù nhưng không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo, thời gian thử thách theo quy định pháp luật là đủ nghiêm.

Ngoài hình phạt chính, Hội đồng xét xử không áp dụng thêm hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: 01 giấy phép lái xe giả, hạng B2, số 25023001X9, họ tên Lê L, đề ngày 30/01/2023, tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án.

Về phần trách nhiệm dân sự: Không.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo, kháng nghị:

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

[8] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Lê L phạm “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Xử phạt: Bị cáo Lê L 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Lê L cho Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Nai giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

“Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật tố tụng hình sự”.

2. Về xử lý vật chứng:

Tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án 01 giấy phép lái xe giả, hạng B2, số 25023001X9, họ tên Lê L, đề ngày 30/01/2023.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 23, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Buộc bị cáo Lê L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo, kháng nghị bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 175/2023/HS-ST

Số hiệu:175/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;