Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 137/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 137/2020/HS-ST NGÀY 17/12/2020 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 17 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 140/2020/HSST ngày 20 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 147/2020/QĐXXST- HS ngày 04 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Hoàng M; sinh năm 1969, tại tỉnh Tây Ninh; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và cư trú hiện nay: Khu phố A, phường AH, thị xã TB, tỉnh TN; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Hoàng L (đã chết) và bà Nguyễn Thị L1 (đã chết); Vợ: Nguyễn Thanh K, sinh năm 1972; Con: Có 02 người; Tiền án, tiền sự: Không có; Nhân thân: Chưa bị xử lý vi phạm hành chính lần nào và chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự lần nào; Bị cáo tại ngoại, Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 10-2019, Lê Hoàng M và Trần Thị Kim Th hùn vốn mở Công ty bảo vệ Hoàng Hải Tân Thanh, trụ sở tại ấp Đức N, xã Đức Lập T, huyện Đức H, tỉnh LA. Khi đó, chị Th có mua trả góp xe ôtô biển số 62A- 165.58 do chị Th đứng tên giấy đăng ký, nhưng bản chính giấy đăng ký xe do Ngân hàng Shinhan Việt Nam giữ. M thường xuyên mượn xe của chị Th để sử dụng. Do chưa có giấy phép lái xe ôtô nên M nảy sinh ý định mua giấy phép lái xe ôtô hạng B2 giả và giấy đăng ký xe ôtô biển số 60A-165.58 giả để sử dụng và xuất trình khi bị lực lượng chức năng kiểm tra.

Khoảng tháng 12-2019, M đến Quận 12, Thành phố Hồ Chí M gặp người đàn nam chạy xe Grab không rõ lý lịch. M đưa 7.000.000 đồng, 04 tấm ảnh, bảng photo giấy căn cước công dân, hình chụp giấy đăng ký xe ôtô biển số 62A- 165.58 để nhờ người này tìm mua giấy phép lái xe ôtô hạng B2 và giấy đăng ký xe ôtô biển số 62A-165.58 giả. Sau đó, người này giao cho M 01 giấy phép lái xe ôtô hạng B2 số 790797240986, họ tên: Lê Hoàng M, ngày sinh 24-4-1969, nơi cư trú: ấp A, xã AH, huyện TB, tỉnh TN, cấp ngày 12-3-2019 và 01 giấy đăng ký xe ôtô số 033040, tên chủ xe: Trần Thị Kim Th, địa chỉ 165/1, ấp 1, xã H, huyện C, tỉnh LA, biển số 62A-165.58, cấp ngày 05-12-2019.

Đến khoảng 07 giờ ngày 24-8-2020, M mượn xe ôtô biển số 62A-165.58 của chị Th đi đến Khu công nghiệp Phước Đông thuộc xã Phước Đông, huyện Gò Dầu, để gặp đối tác kinh doanh. Đến 09 giờ 53 phút cùng ngày, khi đến đoạn đường trên tỉnh lộ 782 thuộc ấp Phước Đức A, xã Phước Đông, huyện Gò Dầu, do M điều khiển xe chạy với tốc độ nhanh nên bị lực lượng Cảnh sát giao thông Công an huyện Gò Dầu lập biên bản vi phạm hành chính, tạm giữ của M 01 giấy phép lái xe ôtô hạng B2 số 790197240986 mang tên Lê Hoàng M cấp ngày 12-3-2019. Ngày 27-8-2020, M đến đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Gò Dầu xuất trình giấy đăng ký xe ôtô số 033040, biển số 62A-165.58, tên chủ xe Trần Thị Kim Th, cấp ngày 05-12-2019. Do nghi vấn M sử dụng giấy tờ giả nên Công an huyện Gò Dầu chuyển hồ sơ vụ việc cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gò Dầu xử lý.

Tại Kết luận giám định số 1319 ngày 04-9-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận:

- Giấy phép lái xe ôtô hạng B2 số 790797240986, họ tên: Lê Hoàng Mí, ngày sinh 24-4-1969; nơi cư trú: Ấp AL, xã AH, huyện TB, tỉnh TN, cấp ngày 12-3-2019 là giấy phép lái xe giả được in bằng phương pháp in phun màu.

- Giấy đăng ký xe ôtô số 033040, tên chủ xe Trần Thị Kim Th, địa chỉ 165/1, ấp 1, xã H, huyện C, tỉnh LA, biển số 62A-165.58, cấp ngày 05-12-2019 là giấy đăng ký xe ôtô giả được in bằng phương pháp in phun màu.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: Giấy phép lái xe ôtô hạng B2 số 790797240986, họ tên: Lê Hoàng M, ngày sinh 24-4-1969; nơi cư trú: Ấp AL, xã AH, huyện TB, tỉnh TN, cấp ngày 12-3-2019 và Giấy đăng ký xe ôtô số 033040, tên chủ xe Trần Thị Kim Th, địa chỉ 165/1, ấp 1, xã H, huyện C, tỉnh LA, biển số 62A-165.58, cấp ngày 05-12-2019 được đưa vào hồ sơ vụ án lưu.

Về kê biên tài sản: Do bị cáo M không có sở hữu tài sản nên Cơ quan điều tra không kê biên. Trong quá trình điều tra, bị cáo có nộp 01 sổ tiết kiệm có kỳ hạn số AD 00014120641 mở tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh thị xã TB, TN số tiền 30.000.000 đồng, tên khách hàng Lê Hoàng M, ngày phát hành 20-11-2020 để đảm bảo việc thi hành án.

Cáo trạng số: 144/CT-VKSGD ngày 19-11-2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu đã truy tố bị cáo Lê Hoàng M về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, được quy định tại Khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Khoản 1 Điều 341, Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo số tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. Đồng thời áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng đã thu giữ theo quy định pháp luật.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Gò Dầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Khoảng 09 giờ 53 phút ngày 24-8- 2020, tại ấp Phước Đức A, xã Phước Đông, huyện Gò Dầu, và tại Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh. Bị cáo Lê Hoàng M có hành vi sử dụng giấy phép lái xe ôtô giả và giấy đăng ký xe ôtô giả với mục đích để lái xe và xuất trình khi bị lực lượng Cảnh sát giao thông kiểm tra thì bị phát hiện.

Lời khai của bị cáo M tại phiên tòa phù hợp với những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, vật chứng được thu giữ. Hành vi của bị cáo đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm của tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, được quy định tại Khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự. Do đó, lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

[3] Mặc dù vụ án này mang tính chất ít nghiêm trọng, nhưng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, hoạt động bình thường, đúng đắn của cơ quan Nhà nước, làm giảm hiệu lực quản lý của các cơ quan Nhà nước. Do đó, khi quyết định hình phạt cần áp dụng đối với bị cáo một mức án nghiêm mới có đủ thời gian giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho từng bị cáo như sau:

Tình tiết tăng nặng: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình được quy định tại Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự mà bị cáo được hưởng.

[4] Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 341, các Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo số tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[5] Về xử lý vật chứng: Giấy phép lái xe ôtô hạng B2 số 790797240986, họ tên: Lê Hoàng M, ngày sinh 24-4-1969; nơi cư trú: Ấp AL, xã AH, huyện TB, tỉnh TN, cấp ngày 12-3-2019 và Giấy đăng ký xe ôtô số 033040, tên chủ xe Trần Thị Kim Th, địa chỉ 165/1, ấp 1, xã H, huyện C, tỉnh LA, biển số 62A- 165.58, cấp ngày 05-12-2019 được đưa vào hồ sơ vụ án lưu, nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

Riêng 01 sổ tiết kiệm có kỳ hạn số AD 00014120641 mở tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh thị xã TB, TN số tiền 30.000.000 đồng, tên khách hàng Lê Hoàng M, ngày phát hành 20-11-2020 không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo. Nhưng mục đích bị cáo nộp sổ tiết kiệm này là để đảm bảo thi hành án, nên cần giao Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[6] Do Hội đồng xét xử kết luận bị cáo có tội và bị kết án. Nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Lê Hoàng M phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

- Căn cứ vào Khoản 1 Điều 341; các Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê Hoàng M số tiền 40.000.000 (bốn mươi triệu) đồng để nộp ngân sách Nhà nước.

2/ Các biện pháp tư pháp: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tạm giữ của bị cáo Lê Hoàng M: 01 sổ tiết kiệm có kỳ hạn số AD 00014120641 mở tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh thị xã TB, TN số tiền 30.000.000 đồng, tên khách hàng Lê Hoàng M, ngày phát hành 20-11-2020 để đảm bảo việc thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng các ngày 15 tháng 12 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Gò Dầu) Trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên xử lý tiền, tài sản đó để thi hành án theo quy định tại Đoạn 2 Khoản 1 Điều 126 của Luật Thi hành án dân sự.

Trường hợp người phải thi hành án đã tự nguyện thi hành án xong thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định trả lại tiền, tài sản tạm giữ theo quy định tại Đoạn 1 Khoản 1 Điều 126 của Luật Thi hành án dân sự.

3/ Án phí: Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

Bị cáo Lê Hoàng M phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4/ Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

379
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 137/2020/HS-ST

Số hiệu:137/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;