Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 129/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 129/2023/HS-ST NGÀY 19/12/2023 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 19 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 134/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 230/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Phạm Thị Tr, sinh ngày 08 tháng 5 năm 1993 tại tỉnh H; Căn cước công dân số 030193001X do Cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội cấp ngày 22/8/2023; nơi đăng ký HKTT: Thôn Đ, xã N, huyện N, tỉnh N; nơi ở hiện nay: Thôn P, xã T, huyện T, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn H và bà Nguyễn Thị D; có chồng là Đỗ Văn T, sinh năm 1991 và 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2023; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Võ Minh Đ, sinh năm 1988.

Địa chỉ: 387 Quang Trung, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2012, Phạm Thị Tr xuất cảnh lao động sang Cộng hòa Liên bang Nga (CHLB Nga), đến tháng 02/2014 thì bị trục xuất về nước. Tháng 4/2017, thông qua tài khoản Facebook “Tr Tam Tr Tam”, Tr liên lạc với một số người Việt Nam đang lao động tại CHLB Nga để hỏi về thủ tục xuất cảnh đi lao động. Qua nói chuyện, Tr được một người (chưa xác định được nhân thân lai lịch) nói cho Tr biết muốn xuất cảnh thì phải làm Hộ chiếu mới với thông tin cá nhân khác thì mới xuất cảnh được và người này cho Tr số điện thoại của người đàn ông (Tr không biết nhân thân lai lịch) làm “dịch vụ” tại tỉnh Gia Lai để liên lạc, quá trình điều tra xác định được người này là Phạm Xuân T (sinh năm 1980, trú tại làng Krai, xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai).

Sau đó, Tr đã liên lạc với Phạm Xuân T (Tr không quen biết T) thì được T cho biết muốn thay đổi thông tin cá nhân để làm Chứng minh nhân dân (viết tắt là CMND), Hộ chiếu tại tỉnh Gia Lai thì chi phí là 25.000.000 đồng và nói Tr cung cấp thông tin cá nhân, họ tên bố mẹ, Sổ hộ khẩu (photocopy) và ảnh 4cm x 6cm của Tr để làm CMND và Hộ chiếu, Tr đồng ý. T yêu cầu Tr ứng trước số tiền 15.000.000 đồng và chuyển vào số tài khoản Ngân hàng của T (Tr không nhớ số tài khoản). Do chưa có tiền nên Tr liên hệ với người phụ nữ tên L (là chủ lao động ở Nga, hiện đang sinh sống tại Nga) để mượn tiền và thỏa thuận khi Tr sang CHLB Nga thì sẽ làm việc tại xưởng may của L và trả nợ bằng hình thức trừ vào lương hàng tháng. L đồng ý và chuyển 15.000.000 đồng vào tài khoản của T.

Ngày 10/5/2017, T yêu cầu Tr vào tỉnh Gia Lai để làm CMND, Hộ chiếu. Sáng ngày 17/5/2017, T nói Tr đến Ủy ban nhân dân xã Ia Kriêng, huyện Đ, tỉnh Gia Lai và cho Tr số điện thoại của một người đàn ông khác (chưa xác định được nhân thân lai lịch) để liên lạc lấy Sổ hộ khẩu và Đơn đề nghị cấp CMND. Khi đến Uỷ ban nhân dân xã Ia Kriêng, Tr gọi theo số điện thoại trên thì một người đàn ông từ trong Ủy ban nhân dân xã Ia Kriêng đi ra và đưa cho Tr quyển Sổ hộ khẩu và Đơn đề nghị cấp CMND ghi thông tin cá nhân là Phạm Thị Thu G (sinh ngày 05/8/1995, nơi đăng ký HKTT: Xã Ia Kriêng, huyện Đ, tỉnh Gia Lai), trên Đơn có dán ảnh chân dung 4x6cm của Trang.

Sau đó, T nói Tr đến Phòng Cảnh sát Quản lý hành chính và Trật tự xã hội - Công an tỉnh Gia Lai. Tại đây, T hướng dẫn Tr nộp hồ sơ, lấy tờ khai CMND điền thông tin cá nhân là Phạm Thị Thu G (sinh ngày 05/8/1995 tại tỉnh H, nguyên quán: Xã T, huyện T, tỉnh H; nơi đăng ký HKTT: xã Ia Kriêng, huyện Đ, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Buôn bán; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 9/12; cha: Phạm Ngọc H; mẹ: Nguyễn Thị D) và ký tên Phạm Thị Thu G tại mục “Người khai ký tên”. Sau khi làm xong thủ tục cấp CMND, Tr đưa Sổ hộ khẩu cho T.

Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, Phạm Xuân T cùng Tr đến Phòng Quản lý xuất nhập cảnh - Công an tỉnh Gia Lai. Tại đây, Tr nộp CMND mang tên Phạm Thị Thu G và lấy Tờ khai đề nghị cấp Hộ chiếu phổ thông. Sau đó, T điền các thông tin cá nhân mang tên Phạm Thị Thu G vào tờ khai rồi đưa cho Tr ký tên Phạm Thị Thu G tại mục “Người đề nghị” và dán ảnh chân dung 4x6cm của Tr vào tờ khai. Sau khi làm xong thủ tục cấp Hộ chiếu, Tr đưa CMND mang tên Phạm Thị Thu G và giấy hẹn cho T. T nói Tr về nhà đợi, khi nào có Hộ chiếu sẽ gửi về cho Tr và yêu cầu Tr trả thêm tiền chi phí gửi Hộ chiếu là 1.000.000đồng.

Khoảng 10-15 ngày sau, T thông báo cho Tr biết đã có Hộ chiếu và yêu cầu Tr trả số tiền 11.000.000 đồng (trong đó: 10.000.000 đồng là chi phí làm CMND, hộ chiếu còn thiếu và 1.000.000 đồng là chi phí gửi). Sau khi Tr chuyển tiền, T đã gửi Hộ chiếu số C3288X cấp ngày 23/5/2017 mang tên Phạm Thị Thu G qua đường bưu điện cho Tr.

Sau khi có hộ chiếu mang tên Phạm Thị Thu G, Tr liên lạc với người phụ nữ tên L nhờ tìm “dịch vụ” xin thị thực, mua vé máy bay để xuất cảnh sang CHLB Nga. L hướng dẫn Tr gửi hộ chiếu trên theo địa chỉ, tên của một người họ hàng của L ở tỉnh N (chưa xác định được nhân thân lai lịch) để người này gửi cho một người làm “dịch vụ” xin thị thực.

Đến giữa tháng 11/2017, người làm “dịch vụ” xin thị thực thông báo cho Tr biết hộ chiếu mang tên Phạm Thị Thu G đã được cấp thị thực đi CHLB Nga. Ngày 22/11/2017, theo hướng dẫn Tr đến sân bay quốc tế Nội Bài và được người của “dịch vụ” đưa Hộ chiếu cùng với vé máy bay đi CHLB Nga. Khi sang CHLB Nga, Tr làm công nhân tại xưởng may của người phụ nữ tên L và được thông báo tổng số tiền Tr nợ là 55.000.000 đồng. Do Tr chưa có “khẩu” cư trú lao động nên ngày 12/01/2018, Tr nhập cảnh về Việt Nam và sinh sống tại thôn P, xã T, huyện T, tỉnh H.

Đến đầu tháng 3/2018, người phụ nữ tên L liên lạc thông báo choTr biết đã xin được “khẩu” và đặt vé máy bay cho Tr đi sang CHLB Nga. Tại CHLB Nga, Tr làm công nhân tại xưởng may của L và trả hết số tiền Tr mượn. Đến ngày 12/01/2023, do có thai nên Tr về Việt Nam. Khi đến sân bay Quốc tế Nội Bài - Hà Nội, Tr bị Công an Cửa khẩu Cảng hàng không quốc tế Nội Bài thuộc Cục Quản lý Xuất nhập cảnh tiến hành lập Biên bản vi phạm hành chính đối về hành vi giả mạo hồ sơ để được cấp Hộ chiếu mang tên Phạm Thị Thu G.

Tại Kết luận giám định số 375/KL-KTHS ngày 25/4/2023; số 381/KL- KTHS ngày 26/4/2023 và số 696/KL-KTHS ngày 18/8/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai kết luận:

- Dấu vân tay trên 01 (một) chỉ bản số 231238X, ghi họ tên Phạm Thị Thu G, sinh ngày 05/8/1995 (mẫu cần giám định) với dấu vân tay trên 01(một) chỉ bản ghi họ tên Phạm Thị Tr, sinh ngày 08/5/1993 (mẫu so sánh) là dấu vân tay của cùng một người.

- Chữ viết, chữ ký trên “TỜ KHAI CHỨNG MINH NHÂN DÂN” số 231238X, ghi họ tên Phạm Thị Thu G, sinh ngày 05/8/1995, lập ngày 17/5/2017 [trừ chữ viết tại các mục: 3., 10., 18. và chữ viết “Gia Lai” tại mục 20] và chữ ký, chữ viết họ tên “G - Phạm Thị Thu G” dưới mục “Người đề nghị (ký, ghi rõ họ tên)” trên“ TỜ KHAI (Dùng cho công dân Việt Nam đề nghị cấp, sửa đổi hộ chiếu phổ thông ở trong nước)”, họ và tên Phạm Thị Thu G, sinh ngày 05/8/1995, lập ngày 17/5/2017 so với chữ viết, chữ ký của Phạm Thị Tr trên các mẫu so sánh do cùng một người viết và ký ra.

- Chữ viết tại các mục: 3., 10., 18.và chữ viết “Gia Lai” tại mục 20 trên “TỜ KHAI CHỨNG MINH NHÂN DÂN” số 231238X, ghi họ tên Phạm Thị Thu G, sinh ngày 05/8/1995, lập ngày 17/5/2017; và chữ ký, chữ viết trên “TỜ KHAI (Dùng cho công dân Việt Nam đề nghị cấp, sửa đổi hộ chiếu phổ thông ở trong nước)”, họ và tên Phạm Thị Thu G, sinh ngày 05/8/1995, lập ngày 17/5/2017[trừ chữ ký, chữ viết họ tên “G - Phạm Thị Thu G” dưới mục “Người đề nghị (ký, ghi rõ họ tên)”] (mẫu cần giám định) so với chữ viết, chữ ký của Phạm Thị Tr trên các mẫu so sánh không phải do cùng một người viết và ký ra.

- Chữ viết trên “TỜ KHAI CHỨNG MINH NHÂN DÂN” và “TỜ KHAI (Dùng cho công dân Việt Nam đề nghị cấp, sửa đổi hộ chiếu phổ thông ở trong nước)” mang tên Phạm Thị Thu G (mẫu cần giám định) so với chữ viết của Võ Minh Đ, Trần Duy M trên các mẫu so sánh không phải do cùng một người viết ra.

- Chữ viết trên “TỜ KHAI CHỨNG MINH NHÂN DÂN” và “TỜ KHAI (Dùng cho công dân Việt Nam đề nghị cấp, sửa đổi hộ chiếu phổ thông ở trong nước)” mang tên Phạm Thị Thu G (mẫu cần giám định) so với chữ viết của Phạm Thị Tr trên các mẫu so sánh không phải do cùng một người viết ra.

- Chữ viết tại mặt trước trên “TỜ KHAI CHỨNG MINH NHÂN DÂN” và “TỜ KHAI (Dùng cho công dân Việt Nam đề nghị cấp, sửa đổi hộ chiếu phổ thông ở trong nước)” mang tên Phạm Thị Thu G (mẫu cần giám định), (trừ chữ viết nội dung “X 17-5-1*24” tại góc trên bên phải và chữ viết nội dung “chưa làm CMND Tại gia lai” dưới dòng chữ “Và Chưa làm Tại Tỉnh Gia Lai lần nào” trên TỜ KHAI CHỨNG MINH NHÂN DÂN” mang tên Phạm Thị Thu G; chữ viết nội dung “17/5/2017 trần thị cẩm nhung” dưới mục “ĐÃ ĐỐI CHIẾU” trên TỜ KHAI (Dùng cho công dân Việt Nam đề nghị cấp, sửa đổi hộ chiếu phổ thông ở trong nước)” mang tên Phạm Thị Thu G so với chữ viết của Phạm Xuân T trên các mẫu so sánh do cùng một người viết ra.

- Chữ ký dưới mục “XÁC NHẬN CỦA CÔNG AN XÔ trên “TỜ KHAI CHỨNG MINH NHÂN DÂN” mang tên Phạm Thị Thu G (mẫu cần giám định) so với chữ ký của Võ Minh Đ trên các mẫu so sánh do cùng một người ký ra.

- Hình dấu tròn có nội dung “*CÔNG AN XÃ IA KRIÊNG*CÔNG AN HUYỆN ĐỨC CƠ TỈNH GIA LAI” dưới mục “XÁC NHẬN CỦA CÔNG AN Xã” trên “TỜ KHAI (Dùng cho công dân Việt Nam đề nghị cấp, sửa đổi hộ chiếu phổ thông ở trong nước)” (mẫu cần giám định) so với hình dấu tròn có cùng nội dung trên các mẫu so sánh do cùng một con dấu đóng ra.

Đối với sổ hộ khẩu có thông tin Phạm Thị Thu G, quá trình điều tra không xác định được Tr nhập khẩu vào hộ khẩu của chủ hộ nào nên Cơ quan An ninh điều tra không thu giữ được.

* Vật chứng đã thu giữ:

- 01 (một) Đơn đề nghị cấp chứng minh nhân dân mang tên Phạm Thị Thu G, sinh ngày 05/08/1995, Nguyên Quán: xã T, huyện T, tỉnh H; Nơi ĐKHK thường trú: xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai.

- 01 (một) tờ khai Chứng minh nhân dân và 01 (một) chỉ bản, số 231238X mang tên Phạm Thị Thu G (sinh ngày 05/8/1995 tại tỉnh H; nguyên quán: xã T, huyện T, tỉnh H; Nơi ĐKHK thường trú: tại xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai), lập ngày 17/5/2017.

- 01 (một) tờ khai dùng cho công dân Việt Nam đề nghị cấp hộ chiếu phổ thông mang tên Phạm Thị Thu G (sinh ngày 05/08/1995 tại tỉnh H; Địa chỉ thường trú: tại Làng Gà, xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai), lập ngày 17/5/2017.

- 01 (một) hộ chiếu số C3288X mang tên Phạm Thị Thu G (sinh ngày 05/8/1995 tại tỉnh H; số CMND: 231238X).

Tại Cáo trạng số 183/CT- VKSGL–P1 ngày 09 tháng 11 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Phạm Thị Tr về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 341 của Bộ luật hình sự.

2. Diễn biến tại phiên tòa:

* Bị cáo Phạm Thị Tr khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

* Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Phạm Thị Tr phạm tội“Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 341; điểm n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Phạm Thị Tr từ 12 (Mười hai) tháng đến 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ thời điểm đi chấp hành án.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

* Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là sai trái, bị cáo rất hối hận, mong HĐXX xem xét hoàn cảnh của bị cáo khó khăn, còn phải nuôi con nhỏ để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2]Về hành vi phạm tội Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Phạm Thị Tr thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, do đó có cơ sở xác định:

Năm 2012, bị cáo Phạm Thị Tr sang Cộng hòa Liên Bang Nga du lịch, sau đó trốn ở lại làm việc đến năm 2014 thì bị trục xuất. Đến năm 2017, vì muốn tiếp tục xuất cảnh lao động sang Cộng hòa Liên Bang Nga để lao động kiếm tiền, bị cáo Tr đã sử dụng thông tin cá nhân không phải của mình mà là tên Phạm Thị Thu G để lừa dối các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sử dụng Hộ khẩu do người khác (chưa xác định được nhân dân lai lịch) đưa để làm Giấy chứng minh nhân dân và từ Giấy chứng minh nhân dân bị cáo tiếp tục làm Hộ chiếu, sau đó sử dụng các giấy tờ mang tên Phạm Thị Thu G này để xuất, nhập cảnh trái phép sang Cộng hòa Liên Bang Nga. Hành vi của bị cáo Phạm Thị Thu Tr đã đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” với tình tiết định khung tăng nặng là “Phạm tội 02 lần trở lên”quy định tại điểm b khoản 2 Điều 341 của Bộ luật hình sự.

Do đó, cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai truy tố bị cáo Phạm Thị Tr về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 341 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được việc sử dụng các giấy tờ không đúng thông tin cá nhân để xuất cảnh lao động nhằm đạt được mục đích cá nhân là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính và sự hoạt động bình thường, uy tín của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong lĩnh vực quản lý nhân hộ khẩu và xuất nhập cảnh, gây mất trật tự an toàn xã hội, nên cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và hậu quả mà bị cáo đã gây ra.

Tuy nhiên cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội khi đang mang thai; bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; bị cáo có ông nội tham gia kháng chiến chống Mỹ và được khen thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng ba (theo Giấy xác nhận hồ sơ khen thưởng số 77XNKT ngày 23/8/2023 của Thường trực Hội đồng thi đua khen thưởng – UBND huyện T, tỉnh H) và cha tham gia quân đội được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương hạng ba. Ngoài ra, hiện nay bị cáo đang nuôi con nhỏ (06 tháng tuổi). Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xét thấy, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự, xét xử bị cáo hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về vật chứng: 01 (một) Đơn đề nghị cấp chứng minh nhân dân mang tên Phạm Thị Thu G, sinh ngày 05/08/1995, Nguyên Quán: xã T, huyện T, tỉnh H; Nơi ĐKHK thường trú: xã I, huyện Đ, tỉnhGia Lai; 01 (một) tờ khai Chứng minh nhân dân và 01 (một) chỉ bản, số 231238X mang tên Phạm Thị Thu G (sinh ngày 05/8/1995 tại tỉnh H; nguyên quán: xã T, huyện T, tỉnh H; Nơi ĐKHK thường trú: tại xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai), lập ngày 17/5/2017; 01 (một) tờ khai dùng cho công dân Việt Nam đề nghị cấp hộ chiếu phổ thông mang tên Phạm Thị Thu G (sinh ngày 05/08/1995 tại tỉnh H; Địa chỉ thường trú: tại Làng Gà, xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai), lập ngày 17/5/2017; 01 (một) hộ chiếu số C3288X mang tên Phạm Thị Thu G (sinh ngày 05/8/1995 tại tỉnh H; số CMND:

231238X), đây là các vật chứng chứng minh tội phạm của bị cáo nên cần tiếp tục lưu giữ, bảo quản tại hồ sơ vụ án.

[5] Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Thị Tr phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Đối với các vấn đề khác - Đối với người đàn ông làm “dịch vụ” tại Gia Lai, Phạm Thị Tr khai đã viết thông tin Phạm Thị Thu G vào Đơn đề nghị cấp CMND và Tờ khai đề nghị cấp hộ chiếu phổ thông mang tên Phạm Thị Thu G. Quá trình điều tra xác định chữ viết trên Đơn đề nghị cấp CMND và Tờ khai đề nghị cấp hộ chiếu phổ thông mang tên Phạm Thị Thu G là chữ viết của Phạm Xuân T (Sinh năm 1980; trú tại làng Krai, xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai; nguyên Phó trưởng công an xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai). Tuy nhiên hiện nay, T đã chết nên không đề cập việc xử lý.

- Đối với Võ Minh Đ (Sinh năm: 1988; trú tại: 387 Quang Trung, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Gia Lai; nguyên trưởng Công an xã I): Đã ký xác nhận vào Đơn đề nghị cấp chứng minh nhân dân mang tên Phạm Thị Thu G. Đ không biết thông tin cá nhân trên đơn đề nghị cấp CMND là giả và cũng không biết ai đã nhập khẩu cho Tr (G). Tại Cơ quan điều tra, Tr không nhận dạng được Đ. Vì vậy, Cơ quan An ninh điều tra không có căn cứ để xử lý hình sự đối với Đ là có căn cứ.

- Đối với người đàn ông đưa Sổ hộ khẩu và Đơn đề nghị cấp CMND có thông tin Phạm Thị Thu G cho Phạm Thị Tr và người phụ nữ tên L (chủ lao động ở nước Nga): Ngoài lời khai của Phạm Thị Tr, thì không có tài liệu để xác minh do đó chưa điều tra, xác minh được. Vì vậy, Cơ quan An ninh điều tra không có căn cứ để mở rộng điều tra là phù hợp.

- Đối với các cơ quan chức năng được giao thẩm quyền giải quyết, cấp Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu cho trường hợp trên là đúng theo quy trình công tác, quy định của pháp luật. Vì vậy, cơ quan chức năng được giao thẩm quyền cấp Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu không vi phạm quy trình công tác và quy định pháp luật, Cơ quan An ninh điều tra không điều tra, xử lý trách nhiệm hình sự là có căn cứ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Thị Tr phạm tội“Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng điểm bkhoản 2 Điều 341; Điều 38,điểmn, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Phạm Thị Tr 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ thời điểm đi chấp hành án.

2. Về vật chứng: Tiếp tục lưu giữ, bảo quản tại hồ sơ vụ án các vật chứng gồm:

- 01 (một) Đơn đề nghị cấp chứng minh nhân dân mang tên Phạm Thị Thu G, sinh ngày 05/08/1995, Nguyên Quán: xã T, huyện T, tỉnh H; Nơi ĐKHK thường trú: xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai;

- 01 (một) tờ khai Chứng minh nhân dân và 01 (một) chỉ bản, số 231238X mang tên Phạm Thị Thu G (sinh ngày 05/8/1995 tại tỉnh H; nguyên quán: xã T, huyện T, tỉnh H; Nơi ĐKHK thường trú: tại xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai), lập ngày 17/5/2017;

- 01 (một) tờ khai dùng cho công dân Việt Nam đề nghị cấp hộ chiếu phổ thông mang tên Phạm Thị Thu G (sinh ngày 05/08/1995 tại tỉnh H; Địa chỉ thường trú: tại Làng Gà, xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai), lập ngày 17/5/2017;

- 01 (một) hộ chiếu số C3288X mang tên Phạm Thị Thu G (sinh ngày 05/8/1995 tại tỉnh H; số CMND: 231238X).

3. Về án phí: Căn cứ các Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Phạm Thị Tr phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4.Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 129/2023/HS-ST

Số hiệu:129/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;