Bản án về tội sử dụng mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản số 149/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN SỐ 149/2023/HS-ST NGÀY 28/12/2023 TỘI “SỬ DỤNG MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 144/2023/TLST- HS ngày 04 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 144/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Hoài N, sinh năm 2001 tại Hà Nam; nơi cư trú: Tổ 1, phường LHP, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân H và bà Lại Thị S; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14 tháng 9 năm 2023 đến ngày 23 tháng 9 năm 2023, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

* Bị hại: Chị Lại Thảo D, sinh năm  xxxx; địa chỉ: Tổ 2, phường LHP, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Lại Thị S, sinh năm 1981; địa chỉ: Tổ 1, phường LHP, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; có mặt.

2. Anh Đỗ Minh C, sinh năm 1997; địa chỉ: Số 87 PH 3, xã GH, huyện DL, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.

* Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1996; vắng mặt.

2. Anh Phạm Văn G, sinh năm 1997; vắng mặt.

3. Anh Trần Hồng Q, sinh năm 1997; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hoài N là nhân viên tại quán cắt tóc Fancy hair Salon do anh Nguyễn Văn T và chị Lại Thảo D làm chủ quán. Sáng ngày 10/9/2023, N đến quán Fancy hair Salon để làm việc, khoảng 10 giờ 20 phút cùng ngày có khách đến quán để cắt tóc, gội đầu nên chị D đi làm tóc cho khách, chị D để lại điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max 64GB màu đen, bên trong lắp sim điện thoại số thuê bao 0949. xxx.xxx ở đầu giường gội đầu. N nhìn thấy chiếc điện thoại di động Iphone XS Max của chị D, thấy không có người, N nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền trong tài khoản Ngân hàng của chị D. Do trong quá trình làm việc, nhiều lần N nghe được chị D đọc mật khẩu màn hình điện thoại là dãy số “22 xxxx” và có lần N nghe chị D nói chuyện về việc các mật khẩu cá nhân được ghi trong phần “ghi chú” của điện thoại nên N cầm điện thoại Iphone XS Max của chị D rồi nhập mật khẩu màn hình và truy cập vào các ứng dụng bên trong chiếc điện thoại, N tìm phần thư mục “ghi chú” thì thấy chị D có lưu mật khẩu để truy cập vào ứng dụng chuyển tiền Internetbanking số tài khoản: 101213 xxxx của chị D được mở tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) chi nhánh tỉnh Hà Nam là “Thaodang2609 xxxx@”, Nam truy cập vào ứng dụng tài khoản Ngân hàng Vietcombank của chị D rồi nhập mật khẩu vào để thực hiện việc chuyển tiền. Do sợ bị chị D phát hiện nên N không chuyển tiền trực tiếp đến tài khoản Ngân hàng của N mà tìm số tài khoản: 10086871 xxxx mở tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (Viettinbank) của anh Đỗ Minh C là bạn của N đang làm thợ cắt tóc tại thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, N thực hiện giao dịch chuyển số tiền 27.000.000đ (hai mươi bẩy triệu đồng) từ tài khoản Ngân hàng Vietcombank của chị D đến số tài khoản 10086871 xxxx của anh C. Sau khi chuyển tiền xong, để tránh bị chị D phát hiện, N xóa tin nhắn mã OTP rồi để chiếc điện thoại của chị D vào vị trí cũ rồi đi ra phía trước cửa quán gọi điện thoại cho anh C, N nói “Em vừa mới chuyển cho anh hai mươi bảy triệu đồng anh nhận được chưa”, C trả lời “anh nhận được rồi”, N nói “em nợ anh bẩy triệu thì anh trừ hết nợ đi, còn lại anh giữ hộ em, khi nào em cần thì em gọi anh chuyển lại cho em”.

Ngày 14/9/2023, Nguyễn Hoài N đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam để đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 màu xanh bên trong lắp sim điện thoại số thuê bao: 0912. xxx.xxx; 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Hoài N; 01 chiếc USB nhãn hiệu Kingston 02Gb màu xanh được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu “USBĐKT”, bên trong lưu trữ video có liên quan đến vụ án.

Ngày 14/9/2023, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Hoài N tại tổ 1, phường LHP, thành phố PL, tỉnh Hà Nam, quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Tại bản cáo trạng số 153/CT-VKS-PL ngày 04/12/2023 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Nguyễn Hoài N về tội “Sử dụng mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 290 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 290; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 50 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoài N mức án từ 15 đến 18 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng, về tội “Sử dụng mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.

Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Hoài N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Lại Thị S có ý kiến: Sau khi sự việc xảy ra, bị cáo Nguyễn Hoài N có nhờ bà trả cho chị Lại Thảo D số tiền mà bị cáo đã chiếm đoạt của chị D, đến nay bà không có ý kiến gì đối với số tiền đã trả chị D thay cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Đỗ Minh C và những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật [3] Đánh giá về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, Hội đồng xét xử thấy cơ bản phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 10/9/2023 tại quán cắt tóc Fancy hair Salon địa chỉ tại thôn 1, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, Nguyễn Hoài N đã mở khóa điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max của chị Lại Thảo D rồi truy cập bất hợp pháp vào tài khoản Ngân hàng Vietcombank của chị Lại Thảo D và chiếm đoạt số tiền 27.000.000đ trong tài khoản của chị D. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 290 của Bộ luật Hình sự. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã tự nguyện đầu thú và bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả cho bị hại; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

 [5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

- Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác và chế độ quản lý an ninh mạng về công nghệ thông tin, an toàn giao dịch điện tử. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng, nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát của chính quyền địa phương cũng đủ răn đe giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ.

- Hình phạt bổ sung: Xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, vì bị cáo không có công ăn việc làm, không có nghề nghiệp ổn định nên không có nguồn thu nhập.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Chị Lại Thảo D đã nhận lại số tiền 27.000.000 đồng mà bị cáo chiếm đoạt nên không có yêu cầu khác về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 màu xanh bên trong lắp một sim điện thoại số thuê bao 0912. xxx.xxx và 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Hoài N, quá trình điều tra xác định là giấy tờ và tài sản cá nhân của bị cáo không liên quan đến vụ án. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã trả lại cho N là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với chiếc USB nhãn hiệu Kingston 02Gb màu xanh được niêm phong trong phong bì ký hiệu “USBĐKT” bên trong lưu trữ video có liên quan đến vụ án được lưu trong hồ sơ làm căn cứ giải quyết vụ án.

[8] Các tình tiết khác của vụ án:

Đối với anh Đỗ Minh C sau khi nhận số tiền 27.000.000đ từ số tài khoản 101213 xxxx tại Ngân hàng Vietcombank của chị Lại Thảo D (do Nguyễn Hoài N) chuyển đến đã chuyển khoản trả lại cho N số tiền 17.000.000đ và giữ lại số tiền 10.000.000đ (trong đó có số tiền 7.000.000đ N vay của anh C và số tiền 3.000.000đ N vay của bạn anh C). Anh C không biết số tiền trên do N phạm tội mà có nên không xem xét xử lý đối với anh Đỗ Minh C là phù hợp pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 290; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 136, 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoài N phạm tội “Sử dụng mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoài N 15 (mười lăm) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (28/12/2023).

Giao bị cáo Nguyễn Hoài N cho Uỷ ban nhân dân phường LHP, thành phố PL, tỉnh Hà Nam giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2/ Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Hoài N phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành bản án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội sử dụng mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản số 149/2023/HS-ST

Số hiệu:149/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;