TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 210/2024/HS-ST NGÀY 25/11/2024 VỀ TỘI SỬ DỤNG CON DẤU, TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 25 tháng 11 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Ba Đình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 209/2024/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 454/2024/QĐXXST- HS ngày 14/11/2024 đối với bị cáo:
Lê Văn Đ; Sinh năm 2000; HKTT và nơi ở: T thị trấn C, huyện H, tỉnh N; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Bố là: Lê Văn C, sinh năm 1978; Mẹ là: Trần Thị M, sinh năm 1979. Gia đình bị cáo có 2 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Danh chỉ bản số 412 lập ngày 30/08/2024 tại Công an quận Ba Đình.
Tiền án, tiền sự:
- Bản án số 05/2020/HS – ST ngày 20/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện H – N tuyên phạt 36 tháng tù về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/09/2022. Đã thi hành án phí.
Bị cáo hiện đang được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.
(Có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21h40’ ngày 22/4/2024, tại trước cửa nhà số x phố C, phường V, B, Hà Nội, tổ công tác Y2 – 141 – Công an thành phố Hà Nội tiến hành kiểm tra hành chính đối với Lê Văn Đ đang điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Winner X, màu đen, BKS: 18H1 – xxxxx đang lưu thông trên phố C theo chiều C đi B. Qua kiểm tra, Đ xuất trình 01 giấy phép lái xe hạng A2 số 361223012800 mang tên Lê Văn Đ. Tra cứu nhanh trên hệ thống phát hiện Giấy phép trên có dấu hiệu là tài tiệu giả, tổ công tác lập biên bản bàn giao người, phương tiện và tang vật cho Công an phường V để làm rõ theo quy định của pháp luật.
* Vật chứng thu giữ của Lê Văn Đ:
- 01 (một) giấy phép lái xe hạng A2 số 361223012800 cấp ngày 10/01/2022 mang tên Lê Văn Đ.
- 01 (một) chứng nhận đăng ký xe mô tô số 18000321 đối với xe Honda Winner X biển kiểm soát 18H1 – xxxxx của Lê Văn Đ.
- 01 (một) xe môtô Honda Winner X, màu đen, BKS: 18H1 – xxxxx.
Tại cơ quan công an , Lê Văn Đ khai nhận : Bản thân Đ có 01 tiền án năm 2020 về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, được tạm tha tù ngày 20/01/2022, chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/9/2022. Sau khi ra trại, Đ có nhu cầu thi bằng lái xe nên đã lên mạng xã hội và tìm được dịch vụ làm giấy phép lái xe. Đ liên hệ quan zalo với một người đàn ông và nói không có thời gian học và thi lý thuyết, người này cam đoan sẽ có người hỗ trợ thi hộ phần lý thuyết cho Đ còn phần thực hành Đ phải tự thi. Đ đồng ý và chụp gửi thông tin cá nhân, ảnh chụp căn cước công dân và ảnh chân dung để làm giấy phép lái xe theo yêu cầu của người này. Sau khoảng 1 tuần, người đàn ông nhắn tin hẹn Đ lên thành phố N để thi thực hành lái xe, Đ được 01 nam thanh niên chở bằng xe máy đến điểm thi, thi xong thì Đ ra về. Cơ quan điều tra yêu cầu Đ chỉ rõ, mô tả địa điểm Đ được chở đến để thi phần thực hành nhưng Đ không chỉ ra được. Thi xong khoảng 4 -5 ngày, Đ nhận được 01 giấy phép lái xe hạng A2 kèm theo một số tài liệu khác. Khi nhận được bằng lái xe, Đ quan sát thấy bị mờ, nghi ngờ là Giấy phép giả nhưng người làm bằng cho Đ trả lời không sao nên Đ không thắc mắc gì, chuyển cho người này số tiền 2.500.000 đồng và sử dụng bằng lái xe đó cho đến nay.
Ngoài ra, Lê Văn Đ cung cấp cho cơ quan điều tra các tài liệu sau:
- 01 (một) đơn đề nghị học, sát hạch để cấp giấy phép lái xe, đề ngày 15/12/2022, ký tên Lê Văn Đ.
- 01 (một) biên bản tổng hợp kết quả sát hạch lái xe mô tô, đề ngày 15/12/2022;
- 01 (một) sơ yếu lý lịch tự thuật (để trống nội dung) - 01 (một) bản sao Giấy khai sinh (để trống nội dung) - 01 (một) đơn xin (để trống nội dung) - 01 (một) giấy chứng nhận sức khỏe (để trống nội dung) Lê Văn Đ khai đây đều là tài liệu được đối tượng gửi kèm bằng lái xe giả cho Đ.
Cục Tổ chức cán bộ - Bộ công an có văn bản số 13099/X01-P2 ngày 20/8/2024 trả lời: Tổ chức bộ máy Bộ Công an và các trường Công an nhân dân không có “Trường cao đẳng giao thông vận tải – Bộ Công an”.
Sở giao thông vận tải N có văn bản số 1254 ngày 08/5/2024 trả lời: “Sở giao thông vận tải tỉnh N không cấp Giấy phép lái xe mô tô hạng A2 số 361223012800 cho công dân Lê Văn Đ. Tra cứu trên máy tính chủ quản lý dữ liệu cấp, đổi giấy phép lái xe cơ giới đường bộ, Sở giao thông vận tải tỉnh N không tìm thấy thông tin về GPLX mô tô các hạng cấp cho công dân Lê Văn Đ nêu trên.
Tại bản Kết luận giám định số 3777/KL-KTHS ngày 31/5/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: “Giấy phép lái xe hạng A2 số 361223012800 cần giám định là giấy phép lái xe giả”.
Chiếc xe Honda Winner X, màu đen, BKS: 18H1 – xxxxx qua xác minh được đăng ký tên Lê Văn Đ. Cơ quan điều tra chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự quận Ba Đình để xử lý theo thẩm quyền.
Đối với thông tin đối tượng đã nhận làm giấy phép lái xe giả cho Lê Văn Đ, do thời gian đã lâu, Đ đã xóa hết tin nhắn nên Cơ quan điều tra không có căn cứ tiếp tục xác minh.
Tại Bản cáo trạng số 204/CT-VKS ngày 01/11/2024 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình truy tố bị cáo Lê Văn Đ về tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo đã khai nhận tội như đã khai tại cơ quan điều tra, Bị cáo thừa nhận bản cáo trạng truy bố bị cáo đúng với hành vi bị cáo đã thực hiện.
* Đại diện Viện kiểm sát luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;
+ Xử phạt Lê Văn Đ 09 (chín) đến 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
Căn cứ Điều 47 Bộ luật hính sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) giấy phép lái xe hạng A2 số 361223012800 cấp ngày 10/01/2022 mang tên Lê Văn Đ.
Trả cho Lê Văn Đ: 01 (một) chứng nhận đăng ký xe mô tô số 18000321 đối với xe Honda Winner X biển kiểm soát 18H1 – xxxxx của Lê Văn Đ; 01 (một) xe môtô Honda Winner X, màu đen, BKS: 18H1 – xxxxx.
Bị cáo không tranh luận gì với kết luận của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và mức hình phạt.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thấy hành vi sử dụng giấy phép lái xe giả của bị cáo là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt quả tang, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ có đủ cơ sở xác định: do có nhu cầu làm giấy phép lái xe mô tô để sử dụng nhưng không muốn phải thi lý thuyết, thông qua mạng xã hội, Lê Văn Đ tìm được dịch vụ giấy phép lái xe với giá 2.500.000đồng. Đ cung cấp cho đối tượng này thông tin cá nhận của mình, ảnh chụp căn cước công dân, ảnh chân dung để đối tượng làm giấy phép lái xe rồi giao đến nhà cho Đ. Sau khi nhận được giấy phép lái xe, Lê Văn Đ sử dụng để điều khiển xe máy tham gia giao thông. Đến khoảng 21h40’ ngày 22/4/2024, Đ bị Tổ công tác Y2 – 141 – Công an thành phố Hà Nội phát hiện, kiểm tra tại trước cửa số x phố C, phường V, quận B, Hà Nội.
Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình truy tố bị cáo là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, đến sự hoạt động đúng đắn, bình thường và uy tín của các Cơ quan Nhà nước trong quản lý hành chính, ngoài ra còn làm phức tạp trật tự an toàn công cộng.
[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; thể hiện bị cáo là đối tượng đã được Nhà nước giáo dục cải tạo nhưng coi thường pháp luật, không chịu tu dưỡng rèn luyện để trở thành công dân có ích cho xã hội mà lại tiếp tục lao vào con đường phạm tội. Do vậy phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
[6] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. [7]. Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) giấy phép lái xe hạng A2 của Lê Văn Đ số 361223012800 mang tên Lê Văn Đ (sinh ngày 11/12/2000; Nơi cư trú: TT Cồn, H.
H, T. N) do Sở Giao Thông Vận tải tỉnh N cấp ngày 10/01/2022.
Trả cho Lê Văn Đ: 01 (một) chứng nhận đăng ký xe mô tô số 18000321 đối với xe Honda Winner X biển kiểm soát 18H1 – xxxxx của Lê Văn Đ; 01 (một) xe môtô Honda Winner X, màu sơn đen, biển kiểm soát: 18H1 – xxxxx; số khung: RLHKC3705MY100285; số máy: KC34E1208860.
[8]. Về án phí:
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, nộp án phí lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
[9]. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2017;
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lê Văn Đ phạm tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 47; Điều 38 Bộ luật hình sự;
+ Xử phạt Lê Văn Đ 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo: Miễn hình phạt tiền đối với bị cáo.
Căn cứ vào:
- Điều 106; Điều 299; Điều 136; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội năm 2016:
+ Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) giấy phép lái xe hạng A2 của Lê Văn Đ số 361223012800 mang tên Lê Văn Đ (sinh ngày 11/12/2000; Nơi cư trú: TT Cồn, H.
H, T. N) do Sở Giao Thông Vận tải tỉnh N cấp ngày 10/01/2022.
Trả cho Lê Văn Đ: 01 (một) chứng nhận đăng ký xe mô tô số 18000321 đối với xe Honda Winner X biển kiểm soát 18H1 – xxxxx của Lê Văn Đ; 01 (một) xe môtô Honda Winner X, màu sơn đen, biển kiểm soát: 18H1 – xxxxx; số khung: RLHKC3705MY100285; số máy: KC34E1208860.
Các vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình theo Biên bản bàn giao vật chứng số 25 ngày 15/11/2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Ba Đình và Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
- Về án phí : Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm
- Quyền kháng cáo : Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 210/2024/HS-ST
| Số hiệu: | 210/2024/HS-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Ngày ban hành: | 25/11/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về