TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 374/2022/HS-PT NGÀY 26/04/2022 VỀ TỘI SỬ DỤNG CON DẤU HOẶC TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 26 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 950/2021/HSPT ngày 22 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo Lê Văn Đ do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 241/2021/HSST ngày 29/10/2021 của Tòa án nhân dân quận B, thành phố Hà Nội.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Lê Văn Đ (tên gọi khác không), sinh năm 1974; giới tính: nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tổ dân phố số 1, phường C, quận B, Hà Nội; nơi cư trú Số 418 đường bờ Tây Sông N, Tổ dân phố số 1, phường C, quận B, thành phố Hà Nội; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; trình độ văn hóa 12/12; Là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam (không còn sinh hoạt Đảng từ năm 2009); nghề nghiệp lao động tự do; con ông Lê Văn Th và bà Nguyễn Thị D; vợ Phạm Thị B và có 4 con (con lớn sinh năm 2000, con út sinh năm 2014); tiền án, tiền sự không; nhân thân ngày 14/6/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xử 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 56 tháng về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” (Đã được xóa án tích); Ngày 21/12/2012, Công an quận B xử phạt hành chính 2.000.000 Đ về hành vi “Gây rối trật tự công cộng có mang theo vũ khí thô sơ”; Danh bản và chỉ bản số 58 do Công an quận B lập ngày 28/12/2020; ngày 05 tháng 7 năm 2021 Công an quận C, thành phố Hà Nội ra Quyết định khởi tố bị can số 337 đối với Lê Văn Đ về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu của cơ quan, tổ chức”, theo Khoản 1 Điều 341 của Bộ luật hình sự; Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an Thành phố Hà Nội; có mặt.
Luật sư bào chữa cho bị cáo: Ông Tào Văn Đ – Công ty luật TNHH Tín P và Cộng sự thuộc Đờn luật sư Thành phố Hà Nội – có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận B, Hà Nội và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân quận B, Hà Nội thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Năm 2010, ông Lê Thanh B và Lê Văn Đ (là hai anh em ruột) cùng sáng lập công ty CPXDTM Hà An (Lê Thanh B là người đại diện theo pháp luật của công ty) và mua chiếc xe ô tô Camry BKS: 30Z-9580, đăng ký xe mang tên Công ty CPXDTM Hà An. Từ khoảng tháng 01 năm 2018, ông B giao xe ô tô trên cho Đ quản lý và sử dụng, còn giấy đăng ký xe thì ông B vẫn giữ. Khoảng giữa tháng 4 năm 2018 Lê Văn Đ và vợ là bà Phạm Thị B mua đất tại Thanh Oai, Hà Nội thiếu tiền nên Lê Văn Đ có ý định thế chấp ô tô BKS 30Z-9580 vay tiền. Do anh Lê Thanh B giữ bản gốc đăng ký xe ô tô, Lê Văn Đ lên mạng internet tìm, đặt làm giấy tờ giả đăng ký xe ô tô Camry BKS:30Z-9580 mang tên Lê Văn Đ với giá 3.000.000 Đ (Ba triệu Đ). Lê Văn Đ đã gửi bản ảnh chụp giấy đăng ký xe mà Đ đã chụp từ trước cho người nhận làm qua điện thoại (không rõ số điện thoại). Khoảng 4-5 ngày sau Đ được một người nam giới gọi điện ra khu vực Cầu Noi, phường C, B, Hà Nội và giao cho Đ 01(một) giấy đăng ký xe ô tô số 047338 mang tên chủ xe Lê Văn Đ và Đ đã trả tiền 3.000.000đ cho người đàn ông này (Đ không biết là ai). Ngày 27/8/2018, thông qua bà Trần Thị Mai Q, vợ chồng Lê Văn Đ, bà Phạm Thị B gặp ông Lê Việt Kh và thỏa thuận vay 500.000.000đ (năm trăm triệu Đ) với lãi suất 2000đ/1.000.000đ/01 ngày, thời hạn vay là 01 tháng. Tuy nhiên ông Kh yêu cầu Lê Văn Đ phải viết giấy bán xe. Đ và bà B đồng ý viết giấy bán và đưa cho ông Kh Giấy đăng ký xe ô tô” mà Đ đã đặt làm cùng Giấy chứng nhận kiểm định của xe ô tô BKS:30Z-9580. Sau khi vay, Lê Văn Đ đã trả cho Kh tổng cộng 90.000.000đ (chín mươi triệu Đ) tiền lãi và 100.000.000đ (một trăm triệu Đ) tiền gốc nhưng sau đó không bán được đất nên không trả nữa. Đến ngày 05/11/2020 Lê Văn Đ và vợ Phạm Thị B đã trả hết số tiền gốc nợ Lê Việt Kh là 400.000.000đ (bốn trăm triệu Đ) và ông Kh đã trả xe ô tô cho Lê Văn Đ.
Tại cơ quan điều tra, Lê Văn Đ khai nhận như đã nêu trên và khai việc lên mạng tìm người làm giả giấy tờ đăng ký xe thì bà B và ông B không biết. Đối với ông Lê Việt Kh: ông Kh khai thông qua bà Trần Thị Mai Quyên, khoảng tháng 8/2018 ông Lê Văn Đ có đặt vấn đề vay của ông Kh 500.000.000 Đ thế chấp B xe ô tô BKS: 30Z-9580. Ngày 27/8/2018 ông Kh sau khi xem giấy tờ xe mang tên ông Lê Văn Đ, thấy đúng nên đã Đ ý cho ông Đ vay số tiền 500.000.000 Đ. Quá trình vay, ông Đ đã trả cho ông Kh được 90.000.000 Đ tiền lãi và 100.000.000 Đ tiền gốc thì không trả nữa nên ông Kh đã gửi đơn tố giác đến Cơ quan công an. Tuy nhiên, đến ngày 05/11/2020, Lê Văn Đ đã trả cho ông Kh số tiền 400.000.000 Đ tiền gốc còn thiếu nên ông Kh không có đề nghị gì với Cơ quan điều tra và không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự. Ông Kh nhận cầm cố xe không biết là xe của công ty Hà An, không biết việc ông Đ làm giả giấy đăng ký xe, không phải hình thức kinh doanh chuyên nghiệp nên không có căn cứ để xử lý đối với Kh.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 241/2021/HSST ngày 29/10/2021 của Tòa án nhân dân quận B, thành phố Hà Nội đã xét xử:
Tuyên bố : Bị cáo Lê Văn Đ phạm tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Lê Văn Đ 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.
Ngày 11/11/2021, bị cáo Lê Văn Đ có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, chỉ đề nghị xem xét Khn hồng cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Căn cứ lời khai của bị cáo, lời khai của những người liên quan; kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức,” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự là đúng có căn cứ, đúng pháp luật. Khi quyết định định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo 09 tháng tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, không có tình tiết mới nên đề nghị Hội Đ xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự, bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên các quyết định của Bản án sơ thẩm.
Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày luận cứ: Về tội danh và điều luật áp dụng, luật sư không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội Đ xét xử xem xét cho bị cáo một số tình tiết sau đây để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo: Tòa án cấp sơ thẩm chưa đánh giá và xem xét cho bị cáo một số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đã xử phạt bị cáo mức án 9 tháng tù là có phần nghiêm: Sau khi phạm tội, bị cáo đã hoàn trả đầy đủ cho ông Lê Văn Kh; hành vi phạm tội của bị cáo chưa gây thiệt hại; gia đình bị cáo có chú ruột là liệt sỹ, bị cáo là người thờ cúng liệt sỹ, bố bị cáo tham gia kháng chiến chống Mỹ được thưởng huy chương; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại các điểm b, h, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do bị cáo có nhiều tính tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên có thể áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo, xử phạt bị cáo mức án 6 tháng tù hoặc chuyển sang hình phạt chính là phạt tiền.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội Đ xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng:
Kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định nên hợp lệ được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung: Căn cứ lời khai của bị cáo, lời khai của những người liên quan, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Do cần vay tiền để thanh toán tiền mua đất nên lên mạng internet tìm, đặt làm giấy tờ giả đăng ký xe ô tô Camry BKS:30Z-9580 mang tên Lê Văn Đ với giá 3.000.000 Đ. Ngày 27/8/2018, thông qua bà Trần Thị Mai Quyên, vợ chồng Lê Văn Đ gặp ông Lê Việt Kh và thỏa thuận vay 500.000.000 đ, thời hạn vay là 01 tháng. Tuy nhiên ông Kh yêu cầu Lê Văn Đ phải viết giấy bán xe. Đ và vợ là bà B Đ ý viết giấy bán và đưa cho ông Kh “Giấy đăng ký xe ô tô” mà Đ đã đặt làm cùng Giấy chứng nhận kiểm định của xe ô tô BKS:30Z-9580. Quá trình vay, Đ đã trả cho ông Kh được 90.000.000 Đ tiền lãi và 100.000.000 Đ tiền gốc thì không trả nữa nên ông Kh đã gửi đơn tố giác đến Cơ quan công an. Với hành vi trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Xét kháng cáo của bị cáo, thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính về con dấu, tài liệu, ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan, tổ chức, gây mất trật tự trị an xã hội và ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn Thủ đô. Bị cáo là người có đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi, biết rõ việc làm của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo có nhân thân xấu, đã có 01 tiền án và 02 tiền sự đã được xóa án tích. Ngày 5/7/2021, bị Công an quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội khởi tố về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu của cơ quan, tổ chức”, theo Khoản 1 Điều 341 của Bộ luật hình sự. Khi quyết định định hình phạt, mặc dù Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự (bị cáo có bố là người có công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ được thưởng huy chương, có chú ruột là liệt sỹ mà bị cáo là người thờ cúng), nhưng căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét thấy mức án 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là phù hợp. Do đó, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, cần giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự,
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Lê Văn Đ 09 (Chín) tháng tù về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức“. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH 12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Án phí, Lệ phí Tòa án; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Bị cáo Lê Văn Đ phải chịu 200.000 Đ án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 26/4/2022.
Bản án 374/2022/HS-PT về tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức
Số hiệu: | 374/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về