Bản án 12/2024/HS-ST về tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 12/2024/HS-ST NGÀY 30/01/2024 VỀ TỘI SỬ DỤNG CON DẤU HOẶC TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 30 tháng 01 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Ba Đình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 241/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 489/2023/QĐXXST- HS ngày 30/12/2023 đối với các bị cáo:

1. N.T.N.M; Sinh năm 2004; HKTT và nơi ở: Thôn A, xã C, huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Bố là: N.T.T, sinh năm 1979; Mẹ là: N.T.N, sinh năm 1979.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại.

(Có mặt tại phiên tòa)

2. N.T.T; Sinh năm 1980; HKTT và nơi ở: Thôn A, xã C, huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Bố là: N.T.M, sinh năm 1940; Mẹ là: N.T.T, sinh năm 1947; Vợ là: N.T.N, sinh năm 1979; Có 2 con, lớn SN 2004, nhỏ SN 2010.

Tiền án, tiền sự: 1 tiền sự về hành vi đánh bạc năm 2021 (đã hết thời hiệu) Bị cáo tại ngoại.

(Có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23h00’ ngày 31/3/2023, N.T.N.M đang điều khiển xe máy có BKS:

29Y3-5xx.xx tại khu vực số nhà 139 Nguyễn Thái Học, phường Điện Biên, quận Ba Đình, Hà Nội thì bị tổ công tác 141 kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra Giấy phép lái xe M đang sử dụng số: 010228513X phát hiện M có dấu hiệu sử dụng Giấy phép lái xe là giấy tờ giả.

Quá trình điều tra xác định: Giấy phép lái xe số: 010228513X mang tên N.T.N.M có nguồn gốc do N.T.T (bố đẻ của M) đưa cho M sử dụng. Về nguồn gốc có Giấy phép lái xe là do thông qua quảng cáo trên mạng xã hội Facebook thấy có thông tin quảng cáo làm được giấy phép lái xe, không phải thi sát hạch. T đã nhờ làm giấy phép lái xe cho con trai là N.T.N.M. T cung cấp thông tin về tên tuổi, địa chỉ, ngày tháng năm sinh của M cho đối tượng trên trang quảng cáo (không gặp trực tiếp, không rõ tên tuổi) và thanh toán tiền công là 1.100.000 đồng. Khoảng năm 2023 thì T nhận được giấy phép lái xe và T đã giao cho M sử dụng.

* Vật chứng thu giữ của N.T.N.M:

- 01 (một) giấy phép lái xe số 010228513682 mang tên N.T.N.M (đính kèm hồ sơ vụ án) - 01 (một) xe môtô hiệu Wave Alpha, màu đen và xanh tím than, BKS: 29Y3-5xx.xx có SM: 13xxxxx, SK: 04xxxx.

Sở giao thông vận tải - UBND thành phố Hà Nội xác định: “Sở giao thông vận tải Hà Nội không cấp Giấy phép lái xe hạng A1, số 010228513X mang tên N.T.N.M”.

Tại bản Kết luận giám định số 4582/KL-KTHS ngày 10/7/2023 kết luận: Giấy phép lái xe hạng A1, số 010228513X là “Giấy phép lái xe giả”.

Tại cơ quan điều tra N.T.T và N.T.N.M đã khai nhận hành vi phạm tội.

Chiếc xe Honda Wave BKS: 29Y3-5xx.xx đứng tên chủ sở hữu N.T.T đã được Quyết định xử lý vật chứng số 163/CQĐT(ĐTTH) ngày 24/11/2023 trao trả cho chủ sở hữu.

Đối với các đối tượng làm giấy phép lái xe giả, T khai không biết đặc điểm, tên tuổi, địa chỉ, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được nên không có căn cứ để xử lý.

Tại Bản cáo trạng số 222/CT-VKS ngày 07/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình truy tố các bị cáo N.T.N.M và N.T.T về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo N.T.N.M và N.T.T khai nhận hành vi phạm tội và xin được giảm nhẹ hình phạt.

* Đại diện Viện kiểm sát luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Xử phạt N.T.T 08- 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; thời hạn thử thách 16- 24 tháng.

+ Xử phạt N.T.N.M 06 -09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; thời hạn thử thách 12- 18 tháng.

Do các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt quả tang, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ có đủ cơ sở xác định: Hồi 23h00’ ngày 31/3/2023, tại khu vực số nhà 139 Nguyễn Thái Học, phường Điện Biên, quận Ba Đình, Hà Nội, N.T.N.M có hành vi sử dụng Giấy phép lái xe hạng A1 giả để điều khiển xe máy lưu thông trên đường (M chưa được cấp Giấy phép lái xe) thì bị tổ công tác 141/Y9 - Công an thành phố Hà Nội phát hiện xử lý. Trước đó, bị cáo N.T.T là người thực hiện hành vi mua giấy phép lái xe hạng A1 giả và giao cho N.T.N.M sử dụng.

Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chứctheo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình truy tố các bị cáo là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, đến sự hoạt động đúng đắn, bình thường và uy tín của các Cơ quan Nhà nước trong quản lý hành chính, ngoài ra còn làm phức tạp trật tự an toàn công cộng. Do vậy cần phải xử lý nghiêm khắc để giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung. Trong vụ án này, bị cáo N.T.T là người khởi xướng việc sử dụng Giấy phép lái xe giả nên phải chịu mức hình phạt cao hơn bị cáo M.

[4] Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Xét bị cáo N.T.T có nhiều tình tiết giảm nhẹ như viện dẫn, có nơi cư trú rõ ràng nên có thể cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội với thời gian thử thách nhất định cũng đủ tác dụng giáo dục răn đe.

Đối với bị cáo N.T.N.M phạm tội ít nghiêm trọng, bị cáo có nơi cư trú rừ ràng nên có thể cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội và phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo. Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên miễn việc khấu trừ thu nhập.

[6] Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[7] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo N.T.N.M và N.T.T phạm tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.

Căn c ứ vào: - Khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự;

+ Xử phạt N.T.T 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo N.T.T về Uỷ ban nhân dân xã C, huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của bản án.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ vào: - Khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự:

+ Xử phạt: N.T.N.M 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ.

Giao bị cáo N.T.N.M về Uỷ ban nhân dân xã C, huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội để giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND xã C nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Căn cứ vào: - Điều 106; Điều 299; Điều 136; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội năm 2016:

Các bị cáo N.T.N.M và N.T.T, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 12/2024/HS-ST về tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:12/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;