TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 580/2021/HS-PT NGÀY 18/11/2021 VỀ TỘI SẢN XUẤT HÀNG GIẢ
Ngày 18 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm, công khai, vụ án hình sự thụ lý số 96/2021/TLPT-HS ngày 04 tháng 02 năm 2021. Do có kháng cáo của bị cáo Phạm Thi H, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2020/HSST ngày 28 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam.
1. Bị cáo có kháng cáo: Phạm Thị H, sinh năm 1984, tại Ninh Bình; nơi ĐKHKTT: Ngõ 73, đường N, phố P, phường P, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; chỗ ở: Phòng 2403, Chung cư S, đường H, phường Q, quận Đ, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Nguyên giám đốc Công ty cổ phần liên doanh MT; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn H và bà Đinh Thị H (đã chết); có chồng là Nguyễn Văn Q (đã ly hôn) và có 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 24/9/2020 đến nay; Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam. Có mặt.
2. Trong vụ án còn có: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; Nguyên đơn dân sự đều không có kháng cáo, kháng nghị; Tòa không triệu tập.
3. Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lại Thị T, Luật sư Công ty Luật TNHH B thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; Địa chỉ: Số 162 Vũ Phạm Hàm, quận G, thành phố Hà Nội. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Công ty Cổ phần liên doanh MT (Công ty MT) được thành lập theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp do Phòng đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Nam cấp ngày 21/02/2020 (mã số doanh nghiệp: 0700836216); địa chỉ: Xóm 5, xã L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; có vốn điều lệ là 10.000.000.000 đồng; do ba cổ đông sáng lập góp vốn, gồm: Phạm Thị H góp 3.000.000.000 đồng tương đương 30% cổ phần; ông Phan Thanh H góp 3.000.000.000 đồng tương đương 30% cổ phần; ông Lê Công M góp 4.000.000.000 đồng tương đương 40% cổ phần, có ngành nghề đăng ký kinh doanh sản xuất thiết bị, dụng cụ y tế, nha khoa, chỉnh hình và phục hồi chức năng; người đại diện theo pháp luật là Phạm Thị H, chức vụ: Giám đốc. Sau khi thành lập công ty, Phạm Thị H không bàn bạc, thống nhất với các cổ đông mà đã trực tiếp giao dịch mua máy móc thiết bị, nguyên vật liệu về rồi pha chế để sản xuất nước rửa tay khô kháng khuẩn trái phép. Cụ thể: Khoảng tháng 02/2020, Phạm Thị H đặt Công ty cổ phần sản xuất mỹ phẩm TV (Công ty TV) sản xuất 1000 chai sản phẩm: “Xịt khuẩn khô thảo dược VERUM ANTI-V” loại 100ml (có số công bố 6236/20/CBMP-HN do Sở y tế thành phố Hà Nội cấp cho Công ty TV). Để thực hiện đơn hàng, H đã đặt Công ty TNHH in thương mại và sản xuất T (Công ty T), địa chỉ tại số 12, ngõ 84, phố T, phường T, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội in số lượng lớn nhãn dán: “Xịt khuẩn khô thảo dược VERUM ANTI- V” gồm các loại 500ml, 300ml, 100ml và 50ml để cung cấp cho Công ty TV sản xuất sản phẩm: “Xịt khuẩn khô thảo dược VERUM ANTI-V”. Sau khi nhận nhãn dán tại Công ty T, H giao một phần cho Công ty TV để làm nhãn cho 1000 chai sản phẩm: “Xịt khuẩn khô thảo dược VERUM ANTI-V” loại 100ml đã đặt, số nhãn mác còn lại H mang về kho của Công ty MT tại xóm 5, xã L, thành phố P. Ngoài ra, H còn quen biết với chị Lê Thị Thùy D, trú tại số 2, ngõ 22, NT, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Trước đó chị D làm Giám đốc, người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH K Việt Nam(Công ty K Việt Nam) có địa chỉ căn MG2-10, khu phố thương mại dự án Vincom Center, số 209 đường 30/4, phường X, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Do chị D biết H đang xây dựng nhà xưởng của Công ty MT và có kho chứa hàng, nên đã gửi hàng hóa (gồm hai loại nhãn dán “Xịt sát khuẩn GERMICIDE” và “Nước rửa tay khô thảo dược GREENIE” cùng nhiều chai lọ các loại) tại kho của Công ty MT để khi nào Công ty MT được cấp phép sản xuất, đăng ký số công bố sản xuất nước rửa tay khô kháng khuẩn, thì chị D sẽ đặt H sản xuất nước rửa tay kháng khuẩn theo số công bố do Công ty MT đã đăng ký và được cấp phép.
Để chuẩn bị cho việc sản xuất nước rửa tay khô kháng khuẩn trái phép, H tự đặt mua các loại máy móc, chai lọ và nguyên liệu bao gồm: 01 (một) cân tiểu ly điện tử; 02 (hai) máy chiết loại hai vòi và một máy quấy mua tại Công ty cổ phần X Việt Nam có địa chỉ tại lô 86A, khu giãn dân Mộ Lao, phường Mộ Lao, quận Đ, thành phố Hà Nội; vỏ chai loại 300ml mua tại Công ty TNHH bao bì Pavicom, địa chỉ tại số 04, lô TT-03, ngõ 4 H, khu đô thị M, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội; các loại vỏ chai khác H nhờ chị Nguyễn Thị H, trú tại xã T, huyện L, tỉnh Bắc Ninh mua hộ tại Công ty TNHH A, địa chỉ tại Cụm công nghiệp thị trấn P, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội; các nguyên liệu gồm sáp ong trắng, dầu cọ, dầu nành, dầu gấc, lô hội lỏng, H mua tại Công ty TNHH LH, địa chỉ tại C24, TT9, khu đô thị Văn Quán, quận Đ, thành phố Hà Nội; hương trà xanh, hương bạc hà, hương bưởi, hương comfort, hương seahorse, hương pink, hương chanh sả, hương vải, hương sen…mua tại Công ty Phương Minh, địa chỉ tại số 4, ngõ 1, đường Trường Chinh, phường Phương Liệt, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội; các loại hóa chất như glycerine, propylene glcol, glydani, kaly hydroxit-KOH, H mua tại Công ty TNHH Lan Phương, địa chỉ tại số 63, ngách 26, ngõ Thái Thịnh 2, đường Thái Thịnh, phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội; dung dịch cồn thì H trực tiếp mua tại chợ Trời - thành phố Hà Nội. Ngoài ra, còn nhờ chị Phạm Thị Hồng Nhật, trú tại số 34, ngõ 113, Thái Thịnh, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội mua hộ 80 lít cồn, 07kg bột carbonmer và 20 lít glycerine.Tất cả các máy móc, thiết bị nguyên vật liệu trên H mang về Công ty MT để phục vụ cho việc sản xuất nước rửa tay khô kháng khuẩn.
Mặc dù Công ty MT không đăng ký sản xuất dung dịch nước rửa tay khô kháng khuẩn, chưa được Sở y tế tỉnh Hà Nam cấp phép sản xuất nước rửa tay khô; và cũng không ký kết hợp đồng liên doanh sản xuất, không được Công ty TV (Đơn vị được Sở y tế thành phố Hà Nội cấp số công bố sản phẩm “Xịt khuẩn khô thảo dược VERUM ANTI-V”); Công ty TNHH liên doanh dược phẩm Rio Pharmacy (Đơn vị được Sở y tế thành phố Hà Nội cấp công bố sản phẩm “GERMICIDE”); Công ty cổ phần dược API (Đơn vị được Sở y tế thành phố Hà Nội cấp số công bố sản phẩm “Nước rửa tay khô thảo dược Greenie”) ủy quyền cho sản xuất nước rửa tay khô kháng khuẩn theo các số công bố trên, không được chị Lê Thị Thùy D cho phép sử dụng hai loại nhãn dán “Xịt sát khuẩn GERMICIDE”; “Nước rửa tay khô thảo dược GREENIE” cùng số chai lọ các loại đang gửi tại Công ty MT. Nhưng Phạm Thị H đã trực tiếp pha chế dung dịch nước rửa tay khô kháng khuẩn, bằng cách cho các nguyên liệu vào máy quấy để quấy, sau đó chỉ đạo và hướng dẫn công nhân gồm: Anh Lại Anh Tùng; chị Nguyễn Thị Lâm Anh; chị Lê Phương Tú Anh; chị Nguyễn Thị Minh Lệ; chị Phạm Thị Hồng cho dung dịch nước rửa tay khô kháng khuẩn mà H đã pha chế vào máy chiết để chiết vào các vỏ chai, đậy nắp, dán nhãn và đóng thành phẩm với các chai: Loại 500ml dán nhãn “Xịt khuẩn khô thảo dược VERUM ANTI-V 500ml”, loại 300ml dán nhãn “Xịt khuẩn khô thảo dược VERUM ANTI-V 300ml”, loại 120ml dán nhãn “Xịt sát khuẩn GERMICIDE 120ml”, loại 100ml dán nhãn “Nước rửa tay khô thảo dược Greenie 100ml” và chai loại 75ml dán nhãn “Nước rửa tay khô thảo dược Greenie 75ml”.
Ngày 17/3/2020, Công an tỉnh Hà Nam phối hợp với Cục quản lý thị trường tỉnh Hà Nam tiến hành kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong sản xuất, kinh doanh hàng hóa của Công ty MT. Quá trình kiểm tra, phát hiện Công ty có dấu hiệu sai phạm trong việc sản xuất sản phẩm nước rửa tay khô kháng khuẩn nên đoàn kiểm tra đã tạm giữ, niêm phong toàn bộ số hàng hóa, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu mà Công ty MT sản xuất về Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh để điều tra, xử lý.
Các vật chứng thu giữ gồm: Thu tại công ty cổ phần liên doanh MT 13 can nhựa màu trắng loại 30 lít, bên trong chứa dung dịch dạng Gel, trên mỗi can ghi chữ Gel sát khuẩn trà xanh; 2.800 chai nhựa màu trắng, bên trong chứa dung dịch, tất cả dán nhãn ghi: Xịt khuẩn khô thảo dược VERUM Anti-V 300ml; 800 chai nhựa màu trắng, bên trong chứa dung dịch, dán nhãn ghi: Xịt sát khuẩn GERMICIDE 120ml; 840 chai nhựa màu trắng, bên trong chứa dung dịch, dán nhãn ghi: Nước rửa tay khô thảo dược GREENIE 100ml; 2.600 chai nhựa màu trắng, bên trong chứa dung dịch, dán nhãn ghi: Nước rửa tay khô thảo dược GREENIE 75ml; 870 chai nhựa màu trắng loại 300ml/chai, chưa dán nhãn, bên trong chứa dung dịch; 300 chai nhựa loại 100ml/chai, chưa dán nhãn, bên trong chứa dung dịch; 480 chai nhựa loại 120ml/chai, chưa dán nhãn, bên trong chứa dung dịch; 570 chai nhựa loại 500ml/chai, chưa dán nhãn, bên trong chứa dung dịch; 24.000 chiếc tem bảo hành, trên mỗi tem ghi Hải Thịnh Pharma Công ty cổ phần đầu tư công nghệ mới Hải Thịnh và 68.500 chiếc nhãn dán gồm: 7.400 chiếc nhãn ghi xịt khuẩn khô thảo dược VERUM Anti-V, 50ml; 50.060 chiếc nhãn ghi xịt khuẩn khô thảo dược VERUM Anti-V, 100ml; 6.450 chiếc nhãn ghi xịt khuẩn khô thảo dược VERUM Anti-V, 300ml; 340 chiếc nhãn ghi xịt khuẩn khô thảo dược VERUM Anti-V, 500ml; 3.600 chiếc nhãn ghi xịt sát khuẩn GERMICIDE, 120ml; 650 chiếc nhãn ghi Nước rửa tay khô thảo dược GREENIE, 75ml; 01 (một) chiếc cân tiểu ly điện tử đã cũ; 02 (hai) chiếc máy chiết đã cũ; thu của Trung tâm kiểm nghiệm thuốc, mỹ phẩm, thực phẩm Hà Nội 01 (một) chai sản phẩm trên nhãn ghi “Nước rửa tay khô thảo dược GREENNIE loại 100ml, sản xuất tại Công ty cổ phần dược API - Quốc Oai, Hà Nội”; thu của Công ty cổ phần sản xuất mỹ phẩm TV 01 (một) bản sao hồ sơ công bố sản phẩm “Gel rửa tay khô thảo dược VERUM ANTI-V” có số công bố 6236/20/CBMP-HN do Sở y tế Hà Nội cấp; thu của Công ty TNHH liên doanh dược phẩm Rio Pharmacy 01 (một) chai sản phẩm trên nhãn ghi “Dung dịch kháng khuẩn GERMICIDE số công bố 6327/20/CBMP- HN” và 01 (một) bản sao hồ sơ công bố sản phẩm “GERMICIDE” có số công bố 6327/20/CBMP-HN do Sở y tế Hà Nội cấp; thu của Công ty cổ phần dược API 01 (một) bản sao hồ sơ công bố sản phẩm “Nước rửa tay khô thảo dược GERMICIDE” có số công bố 3730/18/CBMP-HN do Sở y tế Hà Nội cấp; thu của Công ty TNHH K Việt Nam 01 (một) bản sao hồ sơ công bố sản phẩm “GERMICIDE” có số công bố 6327/20/CBMP-HN do Sở y tế Hà Nội cấp và 01 (một) bản sao hồ sơ công bố sản phẩm “Nước rửa tay khô thảo dược GERMICIDE” có số công bố 3730/18/CBMP-HN do Sở y tế Hà Nội cấp.
Tại bản Kết luận giám định số 2765/C09-P4 ngày 03/6/2020 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an, kết luận: “- Trong các mẫu dung dịch không màu đựng trong 10 (mười) chai nhựa màu trắng, bên ngoài có dán nhãn "Xịt sát khuẩn GERMICIDE 120ml" gửi giám định đều có thành phần chính là Methanol (không có trên nhãn ghi, không có trong công bố sản phẩm mỹ phẩm số 6327/20/CBMP- HN và tiêu chuẩn cơ sở số 17/2020/RIO đối với sản phẩm GERMICIDE của Công ty TNHH liên doanh dược phẩm Rio Pharmacy), hàm lượng Methanol là 80% (v/v). Ngoài ra đều tìm thấy Vitamin E, Glycerin, Triethanolamine… như trên nhãn ghi; không tìm thấy Ethanol như trên nhãn ghi; - Trong các mẫu dung dịch không màu đựng trong 10 (mười) chai nhựa màu trắng, bên ngoài có dán nhãn "Nước rửa tay khô thảo dược GREENIE 100ml" và 10 (mười) chai nhựa màu trắng, bên ngoài có dán nhãn "Nước rửa tay khô thảo dược GREENIE 75ml" gửi giám định đều có thành phần chính là Methanol (không có trên nhãn ghi, không có trong công bố sản phẩm mỹ phẩm số 3730/18/CBMP-HN và tiêu chuẩn cơ sở đối với sản phẩm Nước rửa tay khô thảo dược GREENIE của Công ty cổ phần dược API), hàm lượng Methanol trong chai dán nhãn "Nước rửa tay khô thảo dược GREENIE 100ml" là 91% (v/v) và hàm lượng Methanol trong chai dán nhãn "Nước rửa tay khô thảo dược GREENIE 75ml" là 87% (v/v). Ngoài ra đều tìm thấy Vitamin E, Glycerin, Triethanolamine…như trên nhãn ghi; không tìm thấy Ethanol như trên nhãn ghi; - Trong các mẫu dung dịch không màu đựng trong 10 (mười) chai nhựa màu trắng, bên ngoài có dán nhãn "Xịt khuẩn khô thảo dược VERUM Anti-V 300ml" gửi giám định đều có thành phần chính là Methanol (không có trên nhãn ghi, không có trong công bố sản phẩm mỹ phẩm số 6236/20/CBMP-HN), hàm lượng Methanol là 81% (v/v). Ngoài ra đều tìm thấy Vitamin E, Glycerin, Triethanolamine…như trên nhãn ghi; không tìm thấy Ethanol như trên nhãn ghi; - Trong các mẫu dung dịch không màu đựng trong 10 (mười) chai nhựa màu trắng loại 300ml không dán nhãn gửi giám định, hàm lượng Ethanol là 33,6%; Hàm lượng Methanol là 21; - Trong các mẫu dung dịch không màu đựng trong 10 (mười) chai nhựa màu trắng loại 100ml không dán nhãn gửi giám định, hàm lượng Ethanol là 66,8%; hàm lượng Methanol là 2%; - Trong các mẫu dung dịch không màu đựng trong 10 (mười) chai nhựa màu trắng loại 120ml không dán nhãn gửi giám định, không phát hiện Ethanol; hàm lượng Methanol là 88%; - Trong các mẫu dung dịch không màu đựng trong 10 (mười) chai nhựa màu trắng loại 500ml không dán nhãn gửi giám định, không phát hiện Ethanol; hàm lượng Methanol là 80%;- Trong mẫu dung dịch không màu đựng trong 01 chai nhựa màu trắng loại 500ml, trên vỏ chai ghi chữ "LẤY TỪ CAN" gửi giám định, hàm lượng Ethanol là 24,9%; hàm lượng Methanol là 47,9%; -Trong tất cả các mẫu gửi giám định đều tìm thấy Methanol. Methanol (hay còn gọi là cồn gỗ, cồn công nghiệp,…) thường được sử dụng trong công nghiệp, phòng thí nghiệm. Methanol gây kích ứng khi tiếp xúc với niêm mạc mắt, da; khi hít phải sẽ gây buồn nôn, chóng mặt và sẽ gây tử vong khi uống phải lượng lớn; do vậy không sử dụng Methanol trong y tế để sát khuẩn.” Tại bản Kết luận giám định số 2782/C09-P5 ngày 23/6/2020 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an, kết luận: “-Các lớp in trên nhãn dán "Xịt sát khuẩn GERMICIDE 120ml" do Công ty cổ phần liên doanh MT sản xuất cần giám định so với các lớp in trên nhãn dán "Dung dịch kháng khuẩn GERMICIDE 120ml" do Công ty TNHH liên doanh dược phẩm Rio Pharmacy sản xuất không phải do cùng các bản in tương ứng in ra;các lớp in trên nhãn dán "Nước rửa tay khô thảo dược GREENIE 100ml" do Công ty cổ phần liên doanh MT sản xuất cần giám định so với các lớp in trên nhãn dán "Nước rửa tay khô thảo dược GREENIE 100ml" do Công ty cổ phần dược API sản xuất không phải do cùng các bản in tương ứng in ra”.
Công an tỉnh Hà Nam ra văn bản yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Hà Nam tiến hành định giá theo giá thị trường tại thời điểm ngày 17/3/2020 đối với 9.260 chai Nước rửa tay khô kháng khuẩn đã thu giữ.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 06/2020/KL - ĐGTS ngày 26/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: “3.670 chai xịt khuẩn khô thảo dược VERUM Anti-V, loại 300ml/chai. Tại thời điểm tháng 3/2020 có giá 70.000đ/chai x 3.670 chai = 256.900.000 đồng; 570 chai xịt khuẩn khô thảo dược VERUM Anti-V, loại 500ml/chai. Tại thời điểm tháng 3/2020 có giá 105.000đ/chai x 570 chai = 59.850.000 đồng; 1.280 chai xịt khuẩn GERMICIDE, loại 120ml/chai. Tại thời điểm tháng 3/2020 có giá 42.000đ/chai x 1.280 chai = 53.760.000 đồng; 1.140 chai nước rửa tay khô thảo dược GREENIE, loại 100ml/chai. Tại thời điểm tháng 3/2020 có giá 36.000đ/chai x 1.140 chai = 41.040.000 đồng; 2600 chai nước rửa tay khô thảo dược GREENIE, loại 75ml/chai. Tại thời điểm tháng 3/2020 có giá 21.000đ/chai x 2600 chai = 54.600.000 đồng.Tổng giá trị tài sản là 466.150.000đồng”.
Quá trình điều tra xác định 01 (một) chai sản phẩm trên nhãn ghi “Nước rửa tay khô thảo dược GREENNIE loại 100ml, sản xuất tại Công ty cổ phần dược API - Quốc Oai, Hà Nội” là sản phẩm hợp pháp của Trung tâm kiểm nghiệm thuốc, mỹ phẩm, thực phẩm Hà Nội; 01 (một) chai sản phẩm trên nhãn ghi “Dung dịch kháng khuẩn GERMICIDE số công bố 6327/20/CBMP-HN” là sản phẩm hợp pháp của Công ty TNHH liên doanh dược phẩm Rio Pharmacy. Sau khi giám định, Cơ quan CSĐT – Công an tỉnh đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Trung tâm kiểm nghiệm thuốc, mỹ phẩm, thực phẩm Hà Nội và Công ty TNHH liên doanh dược phẩm Rio Pharmacy.
Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2020/HSST ngày 28 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam, đã quyết định: Căn cứ vào điểm đ khoản 2, khoản 5 Điều 192; điểm s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên bố bị cáo Phạm Thị H phạm tội: “Sản xuất hàng giả”. Xử phạt: Phạm Thị H 05 (năm) 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 24/9/2020. Ngoài ra, bản án còn quyết định về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí, thông báo về quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 31/12/2020, bị cáo Phạm Thị H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Phạm Thị H giữ nguyên nội dung kháng cáo, thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ tại cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm, điều kiện hoàn cảnh gia đình để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo xuống mức thấp nhất.
Luật sư bào chữa cho bị cáo có quan điểm: Việc bị cáo Phạm Thị H bị xử phạt về tội: “Sản xuất hàng giả”, theo điểm đ khoản 2 Điều 192 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhân thân tốt, nhất thời phạm tội; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; sau khi phạm tội đã thành khẩn, ăn năn hối cải; gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bố mẹ đều đã mất, chồng đã ly hôn hai con còn rất nhỏ không có ai chăm sóc; bị cáo có ông nội và cụ nội là người có công với cách mạng; bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ tại cấp sơ thẩm, tại cấp phúc thẩm bị cáo được hưởng thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ tại Khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo xuống mức thấp nhất, để bị cáo sớm có cơ hội trở về chăm sóc con nhỏ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và căn cứ kháng cáo của bị cáo, kết luận: Bị cáo Phạm Thị H bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt về tội: “Sản xuất hàng giả” theo điểm đ khoản 2 Điều 192 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật. Ngoài tình tiết giảm nhẹ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng, tại cấp phúc thẩm, bị cáo H được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ mới tại Khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo H, đồng thời áp dụng Khoản 1 Điều 54 Bộ Luật Hình sự giảm hình phạt cho bị cáo 02 (hai) năm tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng: Cấp sơ thẩm thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đơn kháng cáo của bị cáo gửi trong thời hạn luật định, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Về hành vi phạm tội: Bị cáo Phạm Thị H thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết là đúng pháp luật. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai bị cáo H tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp biên bản thu giữ vật chứng, các kết luận giám định, kết luận định giá tài sản; phù hợp lời khai của các nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Cấp phúc thẩm thống nhất với nhận định và kết luận của Tòa án cấp sơ thẩm về hành vi phạm tội của bị cáo như sau: Với mục đích sản xuất hàng giả để đưa ra thị trường tiêu thụ, mặc dù Công ty cổ phần liên doanh MT chưa được Sở Y tế tỉnh Hà Nam cấp phép sản xuất nước rửa tay khô kháng khuẩn, không ký hợp đồng liên doanh, không được ủy quyền sản xuất sản phẩm của Công ty cổ phần sản xuất mỹ phẩm TV, Công ty TNHH liên doanh dược phẩm Rio Pharmacy, Công ty cổ phần dược API. Trong thời gian từ cuối tháng 02/2020, Phạm Thị H là giám đốc Công ty cổ phần liên doanh MT không bàn bạc, thống nhất với các thành viên góp vốn mà tự ý mua máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, trực tiếp pha chế dung dịch nước rửa tay khô kháng khuẩn, chỉ đạo điều hành công nhân của công ty sang chiết vào chai, dán nhãn sản phẩm giả mạo về nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất, giả mạo số công bố hàng hóa, giả mạo hàng hóa của công ty khác, không đảm bảo thành phần chất lượng như ghi trên nhãn mác. Toàn bộ 9.260 chai nước rửa tay khô kháng khuẩn bị bắt giữ là hàng giả, có tổng giá trị tương đương với giá trị hàng thật là 466.150.000đồng. Với hành vi nêu trên, bị cáo Phạm Thị H đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử và xử phạt về tội: “Sản xuất hàng giả” theo điểm đ Khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[3]. Xét kháng cáo của bị cáo Phạm Thị H, xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước trong quản lý thị trường, xâm phạm lợi ích của người tiêu dùng, quyền được bảo hộ về sở hữu trí tuệ, kinh doanh đúng đắn của các doanh nghiệp, các nhà sản xuất. Bị cáo mua các nguyên vật liệu để tự pha chế, sản xuất nước sát khuẩn, để bán trục lợi, ảnh hưởng rất xấu tình hình an ninh trật tự trong xã hội. Vì vậy, cấp phúc thẩm đồng tình với cấp sơ thẩm cần có hình phạt tương xứng, việc cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn vì toàn bộ số hàng giả đã bị thu hồi ngay;
bản thân đang có con nhỏ; gia đình bị cáo có công với cách mạng nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm s, h khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo Phạm Thị H 05 (năm) 06 (sáu) tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm, ngoài những tình tiết giảm nhẹ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng. Gia đình và Luật sư giao nộp các tài liệu chứng cứ mới: Biên lai thu tiền ngày 24/3/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Nam, thể hiện H đã nộp tiền phạt và án phí sơ thẩm số tiền 20.200.000đồng; Xác nhận ngày 01/9/2020 của Công an phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội thể hiện, ngày 01/8/2020, bị cáo H đến cung cấp thông tin để Công an bắt giữ đối tượng Võ Thị Kiều T, sinh năm 1990, về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy; Đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H của bà Vũ Thị Đông Chiều(mẹ kế), do ly hôn bị cáo H phải nuôi 01 con, sau đó H có thêm 01 con riêng, do H phạm tội nên hiện nay bà Chiều phải nuôi 02 con nhỏ thay cho bị cáo H, đơn được Trưởng xóm và Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Xuân Phong, huyện Nam Trường, tỉnh Nam Định xác nhận; Sổ khám bệnh ngày 09/5/2020 của Bệnh viện phụ sản Hà Nội đối với Phạm Thị H, thể hiện: Kết quả siêu âm đầu dò AĐ số lượng thai 01. Phiếu chỉ định gây mê tĩnh mạch, hút thai lưu, thai trứng > 8 tuần – 10 tuần (NG); Vi bằng số 192/2021/VB-TPLSĐ ngày 13/5/2021 của Văn phòng Thừa phát lại Sao Đỏ, ghi lại thành tích của bị cáo H thể hiện: Năm 2010, Phạm Thị H được tặng thưởng tại Lễ trao giải thưởng: “Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội”, với tác phẩm bức tranh thêu khổng lồ “Cội Xưa”, với chủ đề Cố đô Hoa Lư – Kinh đô của Nhà nước phong kiến đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Căn cứ các tài liệu chứng cứ nêu trên, có căn cứ xác định bị cáo H phạm tội trong thời gian đang mang thai, nên sẽ có những biểu hiện khác thường về tâm lý, tinh thần, làm ảnh hưởng đến đến nhận thức về mức độ nguy hiểm và hậu quả gây ra; gia đình có hoàn cảnh khó khăn, hiện hai con nhỏ phải nhờ chăm sóc nuôi dưỡng, trong khi đó hai cháu rất cần sự chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng của người mẹ; có thành tích trong lao động sản xuất và tích cực trong công tác phòng chống tội phạm; chấp hành nộp khoản tiền phạt và án phí sơ thẩm. Xét thấy, đây là những tình tiết giảm nhẹ mới theo điểm n, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng cho bị cáo được hưởng. Bị cáo Phạm Thị H được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ như nhận định trên, việc cách ly bị cáo thời gian dài sẽ ảnh hưởng rất lớn việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đối với các con của bị cáo, nhất thời phạm tội đặc biệt là phụ nữ phạm tội khi đang có thai. Vì vậy, cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo và giảm một phần hình phạt cho bị cáo H, đồng thời áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, thể hiện sự nhân đạo của pháp luật.
[4]. Quan điểm Luật sư bào chữa cho bị cáo: Xét thấy, các căn cứ và lập luận của Luật sư tại phiên tòa là có cơ sở, được chấp nhận.
[5]. Quan điểm của Đai diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Xét thấy, các căn cứ và lập luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H là có cơ sở, được chấp nhận.
[6]. Về án phí: Bị cáo Phạm Thị H kháng cáo được chấp nhận, không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm theo pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm điểm b Khoản 1 Điều 355, điểm c Khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Thị H.
2. Sửa Bản án Hình sự sơ thẩm số 25/2020/HSST ngày 28 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam.
Căn cứ điểm đ Khoản 2 Điều 192; điểm s, h, n, t Khoản 1, Khoản 2 Điều 51;
Điều 38; Khoản 1 Điều 54; Điều 50 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Phạm Thị H 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội: “Sản xuất hàng giả”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 24/9/2020.
3. Về án phí: Bị cáo Phạm Thị H không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội sản xuất hàng giả số 580/2021/HS-PT
Số hiệu: | 580/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/11/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về