Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm số 70/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 70/2024/HS-ST NGÀY 15/08/2024 VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Trong ngày 15 tháng 08 năm 2024, tại Trụ sở tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:73/2024/TLST-HS ngày 23 tháng 07 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2024/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 08 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Danh T; Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 30/7/2006 tại huyện Y, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm E, xã V, huyện Y, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Họ tên cha: Nguyễn Danh T1; Sinh năm: 1971; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị C; Sinh năm: 1973; Anh chị em ruột: Có 03 người, bị can là con thứ ba trong gia đình; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày 09/01/2024 cho đến nay.(Có mặt tại phiên tòa) - Đại diện hợp pháp cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1973;

Địa chỉ: xóm E, xã V, huyện Y, tỉnh Nghệ An (Mẹ đẻ bị cáo Nguyễn Danh T).(Có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Phan Thị T2 - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh N

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị C - sinh năm 1973; (Có mặt) Địa chỉ: xóm E, xã V, huyện Y, tỉnh Nghệ An.

2. Ông Nguyễn Hữu M - sinh năm 1967; (Vắng mặt) Địa chỉ: K, phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An.

- Người làm chứng: ông Nguyễn Đức D - sinh năm 1958.(Vắng mặt) Trú tại: Xóm V, xã N, huyện Y, tỉnh Nghệ An

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng đầu tháng 12/2023, Nguyễn Danh T đã sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, màu đen vào mạng xã hội TikTok đặt mua các hóa chất gồm: KClO3 (muối K), N (N), S (lưu huỳnh), dây cháy chậm và phôi pháo cuốn bằng giấy để chế tạo pháo nổ. Sau khi mua được các nguyên liệu trên, Thường chế tạo thuốc pháo bằng cách trộn các hóa chất hướng dẫn trên mạng Internet. Khi chế tạo được thuốc pháo, T bỏ thuốc pháo vào phôi pháo, đặt dây cháy chậm vào tạo thành pháo nổ, tạo được 10 khối pháo riêng biệt với nhau và 01 dây pháo gồm 72 khối pháo được liên kết với nhau bằng dây thép và dây cháy chậm. Ngày 28/12/2023, tài khoản Facebook tên “Lan A” nhắn tin cho T đặt mua 10 khối pháo và 01 dây pháo, hai bên đồng ý mua - bán số pháo này với giá 2.000.000đ (hai triệu đồng), hẹn sẽ giao dịch vào lúc 12 giờ 00 ngày 29/12/2023 tại khu vực ngã tư xóm P, xã N, huyện Y.

Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 29/12/2023, T điều khiển xe máy điện, nhãn hiệu SYM Z1, màu đen (xe của bà Nguyễn Thị C, mẹ đẻ của T), mang theo 01 bì xác rắn đựng pháo, đi từ nhà đến xã N, huyện Y để giao dịch mua bán pháo như đã hẹn. Khi T đi đến khu vực xóm P, xã N, huyện Y, thì bị Công an xã N, huyện Y phối hợp với đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Y bắt quả tang, thu giữ tại vị trí trên bệ để chân của chiếc xe máy điện do T điều khiển 01 (một) bì xác rắn màu trắng, bên trong là 82 khối pháo. Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ toàn bộ số vật chứng nói trên.

Ngày 29/12/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu đi giám định, xác định:

- 72 (bảy mươi hai) khối hình tru tròn có kích thước cao 6,5 cm, đường kính 2,8 cm, được cuốn bằng nhiều lớp giấy, phần bọc bên ngoài là giấy màu đỏ, bịt kín hai đầu, một đầu có dây dẫn, có khối lượng là 2,2 kg (hai phẩy hai ki lô gam).

- 08 (tám) khối hình tru tròn có kích thước cao 15 cm, đường kính 6 cm được cuốn bằng nhiều lớp giấy, phần bọc bên ngoài là giấy màu trắng, bịt kín hai đầu, một đầu có dây dẫn, có khối lượng là 2,7 kg (hai phẩy bảy ki lô gam).

- 02 (hai) khối hình tru tròn có kích thước cao 24 cm, đường kính 6 cm được cuốn bằng nhiều lớp giấy, phần bọc bên ngoài là giấy màu trắng, bịt kín hai đầu, một đầu có dây dẫn, có khối lượng là 1,4 kg (một phẩy bốn ki lô gam).

Tổng khối lượng của 82 (tám mươi hai) khối hình trụ tròn là 6,3 kg (sáu phẩy ba ki lô gam).

Tại bản kết luận giám định số 76/KL-KTHS(Đ2-CN) ngày 05/01/2024 của Phòng K1 Công an tỉnh N kết luận: “Các mẫu vật thu giữ của Nguyễn Danh T gửi giám định đều là pháo, loại pháo nổ”.

Theo lời khai của Nguyễn Danh T thì số pháo mà T bị Công an thu giữ trên đường đem đi bán cho người phụ nữ có tên F là “Lan A” nhưng T không biết người này là ai nên không có căn cứ để xử lý.

* Vật chứng và xử lý vật chứng:

- Ngày 29/12/2023, Công an xã N và tổ công tác đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Y đã thu giữ của Nguyễn Danh T 72 (bảy mươi hai) khối hình tru tròn, là pháo nổ, co khối lượng là 2,2 kg (hai phẩy hai ki lô gam), Cơ quan điều tra đã lấy 04 (bôn) khối pháo có tổng khối lượng 0,1kg (không phẩy một ki lô gam) gửi đi giám định (không hoàn lại). 08 (tám) khối pháo có khối lượng là 2,7 kg (hai phẩy bảy ki lô gam), Cơ quan điều tra đã lấy 01 (một) khối pháo có khối lượng 0,3 kg (không phẩy ba ki lô gam) gửi đi giám định (không hoàn lại). 02 (hai) khối pháo có tổng khối lượng là 1,4 kg (một phẩy bốn ki lô gam), Cơ quan điều tra đã lấy 01 (một) khối pháo có khối lượng 0,7 kg (không phẩy bảy ki lô gam) gửi đi giám định (không hoàn lại).

- Thu giữ của Nguyễn Danh T 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONEX, màu đen, số IMEI1: 354855096579007,số IMEI2: 35485509657900, bên trong có gắn sim số: 0817652169.

Đối với tổng số pháo còn lại là 76 khối, có tổng khối lượng 5,2kg (năm phẩy hai ki lô gam), và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, hiện đang được bảo quản tại Kho vật chứng Công an huyện Y chờ xử lý theo quy định của pháp luật.

- Thu giữ của Nguyễn Danh T 01 (một) chiếc xe máy điện nhãn hiệu SYM, số loại SYMZ1, màu đen, không có biển kiểm soát. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho bà Nguyễn Thị C theo quy định.

Tại bản cáo trạng số 76/CT-VKS-YT ngày 19/07/2024 của VKSND huyện Yên Thành đã truy tố Nguyễn Danh T về tội "Sản xuất, buôn bán hàng cấm”, theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; các điểm q, s khoản 1 Điều 51; Điều 65, Điều 91, Điều 101 BLHS. Xử phạt Nguyễn Danh T từ 18 đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 đến 48 tháng về tội “Sản xuất, buôn bán hàng cấm”.

- Về hình phạt bổ sung: Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bản thân bị cáo là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số pháo còn lại đang lưu giữ tại kho vật chứng của Cơ quan điều tra công an huyện Y.

- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, màu đen, số IMEI1: 354855096579007,số IMEI2: 35485509657900, bên trong có gắn sim số:

0817652169 là tài sản của bà Nguyễn Thị C. Khi bị cáo mượn của bà C, sử dụng để đặt mua các hóa chất, dây cháy chậm, phôi pháo cuốn bằng giấy để làm pháo và để liên lạc với đối tượng mua pháo thì bà C không biết. Nên cần trả lại cho bà Nguyễn Thị C.

- Về án phí: Bị cáo có đơn đề nghị miễn án phí nên cần áp dụng điểm đ, khoản 1, Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Bị cáo không tranh luận đối đáp gì với bản luận tội của đại diện viện kiểm sát, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử khoan hồng xử cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất, nhẹ nhất. Đại diện hợp pháp cho bị cáo đề nghị hội đồng xét xử, xem xét xử cho các bị cáo được hưởng mức án nhẹ, thấp nhất tạo điều kiện cho bị cáo được về với gia đình.

Người bào chữa cho bị cáo, không tranh luận đối đáp gì với bản luận tội của đại diện viện kiểm sát. Người bào chữa cho rằng bị cáo phạm tội đang trong độ tuổi chưa thành niên còn hạn chế về nhiều mặt, bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm q, s khoản 1 Điều 51của BLHS, cần áp dụng Điều 65 của BLHS chỉ xử phạt bị cáo Nguyễn Danh T 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo cũng đủ nghiêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên;Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ buộc tội: Vào hồi 13 giờ 00 phút, ngày 29/12/2023, tại xóm P, xã N, huyện Y, Công an xã N phối hợp với tổ công tác Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Y phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Danh T có hành vi buôn bán hàng cấm 6,3kg (sáu phẩy ba ki lô gam) pháo nổ. Sau khi thu giữ vật chứng cơ quan điều tra đã lấy 06 khối pháo để trưng cầu giám định. Kết luận giám định của Phòng K1 chông an tỉnh N đã kết luận “Các mẫu vật thu giữ của Nguyễn Danh T gửi giám định đều là pháo, loại pháo nổ”. Quá trình điều tra, tại phiên tòa Nguyễn Danh T khai đã mua các chất hóa học và tự chế tạo(sản xuất) theo công thức học theo trên mạng Internet để sản xuất pháo nổ sau đó bán cho người khác kiếm lời.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai mà bị cáo đã khai nhận trong quá trình điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn D1 Thường phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng cấm”. Với những tài liệu chứng cứ do cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An đã ban hành bản cáo trạng truy tố bị cáo Nguyễn Danh T về tội “Sản xuất, buôn bán hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 190 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người đúng tội, đúng pháp luật.

Đây và một vụ án nghiêm trọng, hành vi Sản xuất, buôn bán hàng cấm do bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự liều lĩnh xem thường pháp luật, xâm phạm đến những quy định quản lý kinh tế của Nhà nước, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự trên địa bàn. Do vậy việc xử lý về hình sự đối với bị cáo Nguyễn Danh T là hết sức cần thiết, để giáo dục bị cáo và phục vụ cho nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo chưa đủ 18 tuổi, do vậy cần xem xét đến nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội khi lượng hình.

[3]Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trach nhiệm hình sự. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành phẩn khai báo, ăn năn hối lỗi, bị cáo là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Đó là những tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS, nhân thân lý lịch bị cáo trong sáng rỏ ràng, nên chưa cần thiết phạt tù giam đối với bị cáo, mà xử cho bị cáo được hưởng án treo như đề nghị của Đại diện viện kiểm sát.

Do điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với người phụ nữ có tên F là “Lan Anh” đã đặt mua pháo của Nguyễn Danh T, nhưng T không biết người này là ai nên không có căn cứ để xử lý.

[4] Vật chứng: - Đối với tổng số pháo còn lại là 76 khối, có tổng khối lượng 5,2kg (năm phẩy hai ki lô gam), hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng Công an huyện Y. Đây là hàng cấm không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy theo qui định.

- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, màu đen, số IMEI1:

354855096579007,số IMEI2: 35485509657900, bên trong có gắn sim số:

0817652169. Đối với vật chứng này tại phiên tòa đã làm rõ là tài sản của bà Nguyễn Thị C. Khi bị cáo mượn của bà C, sử dụng để đặt mua các hóa chất, dây cháy chậm, phôi pháo cuốn bằng giấy để làm pháo và để liên lạc với đối tượng mua pháo thì bà C không biết. Nên cần trả lại cho chủ sở là đúng pháp luật.

- Thu giữ của Nguyễn Danh T 01 (một) chiếc xe máy điện nhãn hiệu SYM, số loại SYMZ1, màu đen, không có biển kiểm soát. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho bà Nguyễn Thị C là đúng quy định.

[5] Án phí: Bị cáo là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình và có đơn đề nghị miễn án phí nên cần áp dụng điểm đ, khoản 1, Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án miến án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 190; điểm q, s khoản 1 Điều 51; Điều 91, Điều 98, Điều 101, khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Danh T 18(Mười tám) tháng tù về tội “Sản xuất, buôn bán hàng cấm”, nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, thử thách 36(Ba sáu) tháng. Thời hạn thử thách đối với bị cáo được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm(Ngày 15/08/2024).

Giao các bị cáo cho UBND xã V, huyện Y, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã V, huyện Y, tỉnh Nghệ An trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo được thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 76 khối, có tổng khối lượng 5,2kg (năm phẩy hai ki lô gam). (Hiện đang bảo quản tại kho vật chứng Công an huyện Y). Sau khi án có hiệu lực pháp luật, Công an huyện Y có trách nhiệm chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Thành để xử lý theo quy định của pháp luật.

- Trả lại cho bà Nguyễn Thị C chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, màu đen, số IMEI1: 354855096579007, số IMEI2: 35485509657900, bên trong có gắn sim số: 0817652169; Vật chứng được Cơ quan CSĐT Công an huyện Y chuyển giao cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thành theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/07/2024.

3. Án phí: Căn cứ vào điểm đ, khoản 1, Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Danh T.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, Đại diện hợp pháp cho bị cáo, Người bào chữa cho bị cáo, Người có quyền và nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo lên toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án lên toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án do Tòa án tống đạt.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm số 70/2024/HS-ST

Số hiệu:70/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/08/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;