Bản án về tội mua trái phép chất ma túy số 10/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HN

BẢN ÁN 10/2021/HS-ST NGÀY 07/01/2021 VỀ TỘI MUA TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 07 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 370/2020/TLST – HS ngày 02 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 480/2020/QĐXXST - HS ngày 21 tháng 12 năm 2020 đối với:

Bị cáo: 1.Dương Anh Th, sinh năm: 1958 tại HN, Giới tính: Nam ĐKHKTT và chỗ ở: thôn 1, ngõ 2 phố LY, phường BĐ, quận HBT, thành phố HN Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 6/10, Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không, Họ tên bố: Dương Văn L (đã chết), Họ tên mẹ: Nguyễn Thị T1(đã chết); Họ tên vợ: Tống Thị Lệ H2, sinh năm: 1961; có 02 con (con lớn sinh năm 1988, con bé sinh năm 1992);

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

- Bản án số 289 ngày 12/6/1996 của Toà án nhân dân quận HBT, thành phố HN xử phạt 40 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích (đã xoá án tích).

- Bản án số 25 ngày 08/01/1997 của Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố HN xử phạt 36 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Tổng hợp hình phạt với bản án số 289 ngày 12/6/1996 là 76 tháng tù (đã xoá án tích).

- Bản án số 476 ngày 26/9/2005 của Toà án nhân dân quận Đống Đa, thành phố HN xử phạt 04 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Ra trại ngày 05/5/2008 (đã xoá án tích).

Danh chỉ bản số: 145 ngày 28/12/2019 PC04 Bị cáo bị bắt ngày 24/12/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố HN. Có mặt

Ngưi bào chữa cho bị cáo Dương Anh Th: Luật sư Hoàng Ngọc Thanh Bình – Văn phòng luật sư Đặng Sơn và cộng sự - Đoàn luật sư Thành phố HN. Có mặt

2.Trương Thị Hằng Ng, sinh năm: 1963, tại HN; Giới tính: Nữ;

ĐKHKTT và chỗ ở: số 14 ngõ 84 ND, phường PX, quận BĐ, thành phố HN.

Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 5/10; Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không;

Họ tên bố: Trương Ngọc M(đã chết) và họ tên mẹ: Trần Thị H, sinh năm: 1939; Họ tên chồng: Thái Hoàng L(đã chết); có 01 con (sinh năm 1985);

Tiền án, tiền sự: không. Danh chỉ bản số: 178 ngày 11/01/2020 PC11A Bị cáo bị bắt ngày 24/12/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 -Công an thành phố HN. Số giam: 422V1/Buồng giam M1A. Có mặt

Ngưi bào chữa cho bị cáo Trương Thị Hằng Ng: Luật sư Nguyễn Quang T1– Văn phòng luật sư Đặng Sơn và cộng sự - Đoàn luật sư Thành phố HN. Có mặt

3.Trn Lê V, sinh năm: 1957, tại HN; Giới tính: Nam;

ĐKHKTT: số 3 ngách 59/5 ngõ 176 TrĐ, phường TrĐ, quận HBT, thành phố HN (Chỗ ở: số 12 ngách 75/15 ngõ 281 TrĐ, phường TrĐ, quận HBT, thành phố HN).

Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 7/10; Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không;

Họ tên bố: Trần Lê M, sinh năm: 1927 và họ tên mẹ: Đỗ Thị Ng, sinh năm: 1929; Họ tên vợ: Trần Thị L, sinh năm: 1976; có 03 con, con lớn sinh năm 1989, con bé sinh năm 1998;

Tiền án, tiền sự: Không. Danh chỉ bản số: 172 ngày 11/02/2020 PC11A Nhân thân:

- Bản án số 176 ngày 26/8/1981 của Toà án nhân dân thành phố HN xử phạt 36 tháng tù về tội Trộm cắp tài riêng của công dân. Ra trại ngày 31/8/1987. (đã xoá án tích).

Bị can bị bắt ngày 24/12/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố HN. Số giam: 421V1, buồng giam 22A. Có mặt

Ngưi bào chữa cho bị cáo Trần Lê V: Luật sư Nguyễn Quang T1– Văn phòng luật sư Đặng Sơn và cộng sự - Đoàn luật sư Thành phố HN. Có mặt

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Bà Tống Thị Lệ H2, sinh năm 1961 HKTT và trú tại: số 1 ngõ 2 phố LY, phường BĐ, quận HBT, thành phố HN. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 45 phút ngày 24/12/2019, tổ công tác Đội 3 thuộc Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý – Công an thành phố HN làm việc tại khu vực cổng chợ Long Biên, quận Long Biên, thành phố HN phát hiện Trần Lê V đi xe máy BKS: 29D2- 047.22 có biểu hiện nghi vấn nên đã kiểm tra hành chính, Việt tự nguyện giao nộp từ túi áo khoác bên trái 01 gói giấy bên trong có 02 túi nilông, kích thước 04x07 (cm), mỗi túi đều chứa chất bột màu trắng. Tại chỗ Việt khai 02 túi nilon trên đựng ma tuý heroine, Việt lấy của anh Thụ mang đi giao cho chị Nga ở địa chỉ số 14 ngõ 84 ND, phường PX, quận BĐ, thành phố HN thì bị bắt giữ. Ngoài ra còn thu giữ của Việt: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Coolpad, 2 sim số 0964.920.657, 0333.593.381; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Waves màu đỏ, BKS:

29D2 – 047.22, và 300.000 đồng.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Lê V tại số 12 ngách 75/15 ngõ 281 TrĐ, Tương Mai, Hoàng Mai, HN không phát hiện và thu giữ gì.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Trương Thị Hằng Ng tại số 14 ngõ 84 ND, phường PX, quận BĐ, thành phố HN, Nga tự giác giao nộp là 01 gói giấy bên trong là các cục chất bột màu trắng đặt tại mặt bàn tầng 1; ngoài ra thu giữ 01 điện thoại di động và 20.000.000 đồng.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Dương Anh Th tại số 1 ngõ 2, LY, phường BĐ, quận HBT, HN thu giữ: 02 điện thoại di động Nokia màu đen số thuê bao:

0977.331.958, 0395.503.107, 01 điện thoại Iphone màu trắng số thuê bao 0942.721.958 và 20.000.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định số 8528/KLGĐ - PC09 ngày 31/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố HN kết luận đối với số tang vật thu giữ của Trần Lê V: chất bột màu trắng bên trong 02 túi nilông là ma tuý loại Heroine, khối lượng: 37,687 gam (BL: 90).

Tại Bản kết luận giám định số 8529/KLGĐ - PC09 ngày 31/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố HN đối với số tang vật thu giữ của Trương Thị Hằng Ng: các cục chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy là ma tuý loại Heroine, khối lượng: 0,152 gam (BL: 159).

Tại Cơ quan điều tra Trần Lê V khai: Việt và Dương Anh Th quen biết nhau từ nhỏ, trước khi bị bắt khoảng 10 ngày Thụ đặt vấn đề nhờ Việt đi bán ma tuý cho Trương Thị Hằng Ng rồi nhận tiền mua ma tuý mang về đưa cho Thụ, mỗi lần Thụ trả công cho Việt 500.000 đồng, Việt đồng ý. Thụ cho Việt số điện thoại của chị Nga, dẫn Việt đến nhà của Nga để giới thiệu Nga là khách mua ma tuý, những lần sau Nga sẽ liên lạc với Việt để Việt lấy ma tuý của Thụ giao cho Nga và nhận tiền của Nga mang về đưa cho Thụ.

Khoảng 17 giờ ngày 24/12/2019, Nga sử dụng số điện thoại 0845.290.625 gọi vào số điện thoại của Việt (sim 1: 0964.920.657, sim 2: 0333.593.381) bảo Việt liên lạc với Thụ rồi lấy cho Nga 01 cây heroine. Sau đó Việt gọi điện cho Thụ nhưng Thụ không nghe máy. Khoảng 30 phút sau, Thụ sử dụng số điện thoại 0395.503.107 gọi lại cho Việt. Việt báo với Thụ là Nga muốn mua 01 cây heroine nên Thụ bảo Việt đi ra khu vực đầu phố LY, quận Đống Đa, thành phố HN để Thụ đưa ma tuý. Việt đi đến nơi hẹn, Thụ đưa cho Việt 01 gói giấy bên trong có ma tuý rồi bảo Việt giao cho Nga và cầm 20.000.000 đồng về đưa cho Thụ. Việt cất gói ma tuý vào túi áo bên trái rồi đi xe máy đến giao ma tuý cho Hằng, khi đến khu vực cổng chợ Long Biên thì bị bắt giữ cùng tang vật.

Trước đó khoảng 10 ngày, vào ngày 11/12/2019, Nga gọi điện cho Việt để hỏi mua “01 cốc heroine”, Việt hiểu 1 cốc heroine tương đương với 01 cây heroine nhưng không biết khối lượng ma tuý cụ thể. Việt liên lạc để báo với Thụ việc Nga hỏi mua ma tuý, Thụ hẹn Việt ra khu vực Hồ Bãi cát đầu phố LY để đưa ma tuý cho Việt rồi Việt mang số ma tuý này đưa cho Nga. Sau khi Nga nhận gói ma tuý đã trả tiền cho Việt rồi Việt mang tiền về đưa cho Thụ. Thụ trả công giao bán ma tuý cho Việt 700.000 đồng (BL: 113- 129).

Trương Thị Hằng Ng khai phù hợp với lời khai của Trần Lê V về việc Nga đặt vấn đề mua ma tuý của Thụ để bán kiếm lời nên Thụ đã giới thiệu Việt với Nga để Nga liên lạc với Việt mua ma tuý. Nga đã 2 lần liên lạc với Việt để đặt mua ma tuý của Thụ. Lần 1 vào ngày 14/12/2019 Nga liên lạc với Việt hỏi mua 01 cây heroine, sau đó Việt mang ma tuý đến giao cho Nga và Nga trả 20.000.000 đồng cho Việt mang về đưa cho Thụ. Số ma tuý này Nga cất giấu tại nhà, chia nhỏ để bán cho khách, số ma tuý còn lại chưa bán hết đã bị Cơ quan điều tra thu giữ. Đến ngày 24/12/2019, Nga tiếp tục gọi điện để hỏi mua của Việt 01 cây heroine nhưng chưa nhận được ma tuý thì Việt đã bị bắt giữ. (BL: 162-165, 172-202).

Ban đầu Dương Anh Th khai phù hợp với lời khai của Trần Lê V và Trương Thị Hằng Ng về việc Thụ đã 2 lần đưa ma tuý cho Việt để Việt bán cho Nga vào ngày 11/12/2019 và ngày 24/12/2019, mỗi lần Thụ bán cho Nga 01 cây heroine với giá 20.000.000 đồng. Số ma tuý này Thụ mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực bến xe Giáp Bát, quận Hoàng Mai, HN với giá 18.500.000 đồng/ 01 cây heroine. Chuyến đầu tiên bán ma tuý cho Nga, Thụ trả công cho Việt 700.000 đồng, chuyến thứ 2 Thụ chưa trả công cho Việt thì đã bị bắt giữ (BL: 236 – 255).

Quá trình điều tra Thụ thay đổi lời khai, Thụ chỉ nhận việc đưa ma tuý cho Việt để bán cho Nga 01 cây heroine vào ngày 24/12/2019 với giá 20.000.000 đồng. Đối với việc mua bán ma tuý với Nga và Việt vào ngày 11/12/2019, Thụ khai không biết và không liên quan (BL: 256-257).

Kết quả thu giữ thông tin chi tiết các số điện thoại của bị can xác định: ngày 11/12/2019 và 24/12/2019, Nga, Việt và Thụ liên lạc với nhau nhiều lần, thời gian liên lạc và vị trí cột sóng phù hợp với lời khai của các bị can về việc giao dịch mua bán ma tuý.

Đối với người đàn ông bán ma tuý ở bến xe Giáp Bát, quận Hoàng Mai, thành phố HN, do Thụ không khai được tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ để xác minh làm rõ.

Đối với chiếc xe máy Honda Waves, BKS: 29D2 – 047.22 xác minh chủ sở hữu là Trần Lê V, không phải xe vật chứng. Việt khai mua chiếc xe trên làm phương tiện đi lại.

Đối với số tiền 20.000.000 đồng thu của Hằng: Hằng khai đây là tiền Hằng mua bán ma tuý. Đối với số tiền 20.000.000 đồng thu được của Thụ, Thụ khai đây là tiền cá nhân của vợ Thụ, không biết nguồn gốc. Tống Thị Lệ H2 (sinh năm: 1961, trú tại: số 1 ngõ 2 phố LY, BĐ, quận HBT, HN) - vợ của Thụ khai số tiền trên là của chị Hiền lao động tiết kiệm mà có, không liên quan đến việc mua bán ma tuý của Thụ. Số tiền 300.000 đồng thu của Việt: Việt khai do lao động tiết kiệm mà có, không liên quan đến việc mua bán ma tuý.

Căn cứ lời khai phù hợp của Thụ, Việt, Nga và các tài liệu khác đều phù hợp nhau về việc các bị can đã mua bán ma tuý với nhau 02 lần vào các ngày 11/12/2019 và 24/12/2019, mỗi lần mua bán 01 cây heroine. Đối với lần mua bán ma tuý vào ngày 11/12/2019 không thu được ma tuý tuy nhiên lần thứ hai các bị can mua bán ma tuý vào ngày 24/12/2019 đã bị bắt quả tang và thu giữ 37,687 gam Heroine nên Thụ, Việt và Nga phải chịu trách nhiệm về việc mua bán 2 cây heroine, tương đương với 37,687 gam x 2 = 75,374 gam Heroine. Do Nga khai 0,152 gam Heroine thu được tại nơi ở là số ma tuý Nga mua của Thụ và Việt ngày 11/12/2019 chưa bán hết nên không quy kết đối với số ma tuý này.

Bản cáo trạng số: 347/CT-VKS-P1 ngày 16 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố HN truy tố các bị cáo Dương Anh Th, Trương Thị Hằng Ng, Trần Lê V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay:

Bị cáo Thụ, bị cáo Nga, bị cáo Việt đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, thừa nhận việc bị truy tố về tội mua bán trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội, không kêu oan và đề nghị hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Thụ: không có ý kiến về tội danh và điều luật mà Cáo trạng đã nêu. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tuổi đã cao; mặc dù có nhiều tiền án nhưng đều đã được xóa án tích; trình độ thấp nên nhận thức pháp luật có gới hạn. Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Việt và bị cáo Nga: không có ý kiến về tội danh và điều luật mà Cáo trạng đã nêu. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tuổi đã cao; nhận thức pháp luật tháp do trình độ thấp.

Bị cáo Việt chỉ là người vận chuyển hưởng thù lao, không phải kẻ chủ mưu, cầm đầu, việc mua bán ngã giá do các bị cáo khác thực hiện nên vai trò của bị cáo thấp hơn các bị cáo khác.

Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án thấp hơn so với đề nghị của Viện kiểm sát.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố HN duy trì công tố tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo theo bản cáo trạng. Sau khi phân tích đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân các bị cáo, xem xét phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và có quan điểm:

Các bị cáo Thụ, Nga, Việt: khai báo thành khẩn phù hợp các tài liệu có trong hồ sơ đủ cơ sở kết luận các bị cáo phạm tội mua bán trái phép chất ma túy như cáo trạng đã truy tố.

Nhân thân bị cáo Thụ có nhiều tiền án và bị cáo Việt có 01 tiền án mặc dù đều đã được xóa án tích nhưng là người có thân thân xấu.

Nhân thân bị cáo Nga mặc dù chưa có tiền án, tiền sự nhưng cùng các bị cáo khác thực hiện hành vi mua bán ma túy với số lượng lớn loại Heroine; các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm s, khỏa 1 điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

Đủ căn cứ kết luận các bị cáo Dương Anh Th, Trương Thị Hằng Ng, Trần Lê V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 38, điểm Điều 50; điểm s, khoản 1 Điều 51; điểm g điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt:

- Dương Anh Th 16 năm đến 16 năm 06 tháng tù.

- Trương Thị Hằng Ng16 năm đến 16 năm 06 tháng tù.

- Trần Lê V 15 năm 06 tháng đến 16 năm tù.

Tịch thu tiêu hủy vật chứng của vụ án đã chuyển cơ quan thi hành án thành phố HN, tịch thu xung công 05 điện thoại và 01 xe máy đã thu của các bị cáo.

Trả cho chị Tống Thị Lê Hiền số tiền 20.000.000 đồng ; tcih thu xung xcoong số tiền thu của bịc áo Nga 20.000.000 đồng và chiếc xe máy của Việt.

Không áp dụng hình phạt bổ sung do các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi quyết định tố tụng:

Các hành vi quyết định tố tụng của Điều tra viên - Cơ quan cảnh sát Điều tra và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo không khiếu nại về hành vi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Căn cứ lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của các nhân chứng; vật chứng, kết quả giám định, các tài liệu có trong hồ sơ và kết quả tranh tụng cở đủ cơ sở kết luận:

Ngày 24/12/2019, Dương Anh Th giao cho Trần Lê V 37,687 gam Heroine để bán cho Trương Thị Hằng Ng với giá 20.000.000 đồng nhưng chưa kịp bán ma tuý cho Nga thì Việt bị bắt giữ cùng tang vật tại khu vực cổng chợ Long Biên, phường PX, quận BĐ, thành phố HN.

Trước đó vào ngày 11/12/2019, Dương Anh Th đã giao cho Trần Lê V 01 cây heroine để bán cho Nga với giá 20.000.000 đồng, Thụ trả công cho Việt 700.000 đồng. Sau đó Nga cất giấu số ma tuý tại số 14 ngõ 84 ND, phường PX, quận BĐ, HN để bán kiếm lời, còn lại 0,152 gam Heroine chưa bán hết thì bị thu giữ.

Như vậy, Dương Anh Th, Trần Lê V và Trương Thị Hằng Ng phải chịu trách nhiệm về việc mua bán ma tuý 02 lần, tổng cộng là 75,374 gam Heroine.

Hành vi của bị cáo Dương Anh Th, Trần Lê V và Trương Thị Hằng Ng đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xét hành vi của các bị cáo mua bán trái phép chất ma túy loại Heroine là các chất ma túy có tác dụng kích thích mạnh cơ quan thần kinh trung ương của người sử dụng, dễ khiến con người rơi vào tình trạng khó kiểm soát hành vi với các dạng bị kích động mạnh hoặc ảo giác, hoang tưởng; ma túy còn gây tác hại đến sức khỏe người sử dụng và là nguồn cơn của nhiều loại tội phạm như giết người, cố ý gây thương tích, cướp tài sản…gây hoang mang, phẫn nộ trong quần chúng nhân. Hành vi của bị cáo xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà Nước về quản lý ma túy. Khối lượng các bị cáo mua bán 75,374 gam Heroine là rất lớn và nguy hiểm cho xã hội.

[3] Nhân thân vai trò tham gia của cac bị cáo: Trong vụ án này, xác định vai trò tham gia của các bị cáo Thụ là người bán ma túy, Nga là người mua ma túy Việt là đồng phạm giao ma túy,.

- Về tình tiết giảm nhẹ:

Bị cáo Thụ đã nhiều lần bị Tòa án các địa phương xét xử, mặc dù được xóa án tích, là người có ma túy đi bán nên vai trò cao hơn các bị cáo khác. Ban đầu khai thừa nhận bán cho Nga hai lần, sau đo thay đổi lười khai chỉ thừa nhận bán cho Nga một lần vào ngày 24/12/2019. Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận thừa nhận bán cho Nga 2 lần như cáo trạng đã truy tố nên vẫn xét bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, hợp tác với cơ quan điều tra trong việc giải quyết vụ án là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm s, t khỏa 1 điều 51 Bộ Luật Hình sự.

Bị cáo Nga chưa có tiền án, tiền sự xong lần này mua bán ma túy với số lượng khá lớn loại Heroine nên cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc. Song, xem xét bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, hợp tác với cơ quan điều tra trong việc giải quyết vụ án là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm s, t khỏa 1 điều 51 Bộ Luật Hình sự.

Bị cáo Việt đã bị xét xử 1 lần năm 1981 đến nay thời gian đã lâu và đã được xóa án tích lần này phạm tội theo yêu cầu của Thụ đã mang bán ma túy cho Nga với số lượng khá lớn loại Heroine để hưởng tiền công là 700.000 đồng (bị cáo chưa được hưởng lợi). So với hai bị cáo Thụ và Nga thì vai trò của bị cáo thấp hơn; xét bị cáo thành khẩn, ăn năn hối cải, hợp tác với cơ quan điều tra trong việc giải quyết vụ án, vai trò tham gia vụ án thứ yếu; là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm s, t khỏan 1 điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

- Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo 02 lần thực hiện việc mua bán ma túy vào các ngày 11/12/2019 và ngày 24/12/2019; do đó phải chịu tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

Từ nhận định trên, xét thấy cần cho các bị cáo hưởng mức án tù cách ly khởi đời sống xã hội một thời gian dài mới tương xứng tính chất mức độ hành vi phạm tội.

[4] Xử lý tang vật: Cơ quan điều tra thu giữ Vật chứng gồm:

- 02 (hai) phong bì niêm phong kích thước khoảng 10×17cm được dán kín, trên các mép dán niêm phong có chữ ký của Giám định viên, cán bộ Phòng PC04, đối tượng và dấu niêm phong của Phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy. Là tang vật vụ án cho tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONDA, mầu đỏ đen BKS: 29D2-047.22; số khung: RLHHC09096Y437082, số máy: HC09E6437162; số loại WAVE S, loại xe hai bánh từ 50-175cm3, dung tích xi lanh: 97 và số tiền 300.000.000 đồng thu của bị cáo Việt, tại phiên tòa bị cáo khai xe dùng để hành nghề xe ôm kiếm sống, số tiền 300.000 đồng do chạy xe ôm mà có tuy đã sử dụng đi đưa ma túy cho Nga nhưng xét hoàn cảnh bị cáo khó khăn và đây là phương tiện làm ăn sinh sống duy nhất và tiền không liên quan đến vụ án nên trả cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Các điện thoại di động thu của các bị cáo dùng vào việc liên lạc mua bán ma túy nên tịch thu xung công.

- Số tiền 40.300.000 đồng theo Giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949.0.9054015 lập ngày 2/3/2020 tại Kho bạc Nhà nước Hà Đông cụ thể:

Số tiền thu giữ của bị cáo Trương Thị Hằng Ng tại cơ quan điều tra bị cáo khai do bán ma túy mà có; tại phiên tòa bị cáo khai tiền sinh sống tiết kiệm không liên quan đến việc mua bán ma túy. Xét thấy khi Việt đem ma túy giao cho Nga ngày 24/12/2019 nhưng chưa gặp được Nga đã bị bắt; sau đó Nga bị bắt và khám nhà và bị thu giữ số tiền này. Xét bị cáo tại phiên tòa thay đổi lời khai; các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ chưa đủ cơ sở kết luận số tiền này được sử dụng vào việc mua bán ma túy nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Số tiền 20.000.000 đồng thu tại nhà của bị cáo Thụ là của bà Tống Thị Lệ H2 vợ bị cáo không liên quan đến vụ án nên được trả lại cho bà Hiền.

Số tiền Số tang vật, tiền thu trong vụ án đã được chuyển giao sang tài khoản tại Kho bạc Nhà nước Hà Đông và kho của Cục thi hành án thành phố HN theo biên bản chuyển giao vật chứng, tài sản ngày 15/09/2020.

[5] Hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

I./ Tuyên bố bị cáo Dương Anh Th, Trương Thị Hằng Ng, Trần Lê V phạm tội “Mua trái phép chất ma túy”.

II./ Áp dụng: Điều 106, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí:

1./ Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm a khoản 1 Điều 47, Điều 50; điểm s,t khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Xử phạt: Dương Anh Th 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 24/12/2019.

2./ Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm a khoản 1 Điều 47, Điều 50; điểm s,t khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Xử phạt: Trương Thị Hằng Ng 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 24/12/2019.

3./ Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm a khoản 1 Điều 47, Điều 50; điểm s,t khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: Trần Lê V 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 24/12/2019.

III./ Xử lý vật chứng và tài sản thu giữ:

1./ Tịch thu tiêu huỷ gồm: (Đã chuyển sang Cục Thi hành án thành phố HN theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15/09/2020.) - 01 (một) phong bì niêm phong kích thước khoảng 10×17cm được dán kín, trên các mép dán niêm phong có chữ ký của Giám định viên Trần Ngọc Chinh, cán bộ Phòng PC04 Vũ Hải Đăng, đối tượng Trần Lê V và dấu niêm phong của Phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy, trên phong bì ghi vật chứng vụ án mua bán ma túy của Trần Lê V. Bên giao và bên nhận không kiểm tra bên trong.

- 01 (một) phong bì niêm phong kích thước khoảng 10×17cm được dán kín, trên các mép dán niêm phong có chữ ký của Giám định viên Trần Ngọc Chinh, cán bộ Phòng PC04 Hoàng Trọng Đạo, đối tượng Trương Thị Hằng Ng và dấu niêm phong của Phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy, trên phong bì ghi 0,133g. Bên giao và bên nhận không kiểm tra bên trong.

2./Tịch thu xung công: (Đã chuyển sang Cục Thi hành án thành phố HN theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15/09/2020.)

- 01 (một) điện thoại di động coolpad mầu đen – xanh có gắn hai sim điện thoại, IMEI được dán trong máy – IMEI 1: 869334040241419, IMEI 2: 869334040155411, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra được chất lượng máy. Hiện tại máy không khởi động được.

- 01 (một) điện thoại di động NOKIA mầu xanh – đen có gắn một sim điện thoại, IMEI dán trong máy – IMEI 1: 356018085277129, IMEI 2: 356018085277137, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra được chất lượng máy. Hiện tại máy không khởi động được.

- 01 (một) điện thoại di động NOKIA mầu đen có gắn một sim điện thoại, IMEI dán trong máy: 356489060913204, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra được chất lượng máy. Hiện tại máy không khởi động được.

- 01 (một) điện thoại di động NOKIA mầu đen có gắn một sim điện thoại, số IMEI: 358991090778349, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra được chất lượng máy.

- 01 (một) điện thoại di động iphone mầu trắng có gắn một sim điện thoại, số IMEI: 353048095743490, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra được chất lượng máy.

3./ Trả tài sản:

- Trả cho bị cáo Trần Lê V:

+ 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONDA, mầu đỏ đen BKS: 29D2-047.22; số khung: RLHHC09096Y437082, số máy: HC09E6437162; số loại WAVE S, loại xe hai bánh từ 50-175cm3, dung tích xi lanh: 97; xung quanh xe có nhiều vết trầy xước, nhiều chi tiết hoen gỉ, vỡ phần nhựa chắn bùn phía trước; xe đã qua sử dụng, không kiểm tra được chất lượng, không kiểm tra được tình trạng hoạt động. (Đã chuyển sang Cục Thi hành án thành phố HN theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15/09/2020.)

+ Số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng. (Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp – Công an Thành phố HN theo Giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949.0.9054015 lập ngày 2/3/2020 tại Kho bạc Nhà nước Hà Đông). Nhưng cho tạm giữa để đảm bảo thi hành án.

- Trả cho bị cáo Trương Thị Hằng Ng số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu) nhưng cho tạm giữ để đảm bảo thi hành án. (Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp – Công an Thành phố HN theo Giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949.0.9054015 lập ngày 2/3/2020 tại Kho bạc Nhà nước Hà Đông.)

- Trả cho bà Tống Thị Lệ H2 số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng (Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp – Công an Thành phố HN theo Giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949.0.9054015 lập ngày 2/3/2020 tại Kho bạc Nhà nước Hà Đông.)

IV./ Về án phí và về quyền kháng cáo:

- Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

- Các bị cáo; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua trái phép chất ma túy số 10/2021/HS-ST

Số hiệu:10/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;