Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 80/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 80/2022/HS-ST NGÀY 18/03/2022 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý 31/2021/TLST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2022/QĐXXST–HS ngày 15/02/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 49/2022/QĐST-HS ngày 01/3/2022 đối với:

1. Bị cáo Trương Quang T, sinh năm 1990 tại Khánh Hòa; nơi cư trú: Thôn Đ, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa; tạm trú tại phòng trọ không số, thuộc tổ X, thôn V, xã V, thành phố N; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch Việt Nam; con ông Trương Quang Tr và bà Võ Thị L; sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Ngọc L; tiền sự, tiền án: không; nhân thân; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/01/2021; có mặt.

2. Bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1990 tại Khánh Hòa; nơi cư trú: Tổ X, phường N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh P và bà Ngô Thị Kim H (chết); có chồng đã ly hôn; đang sống như vợ chồng với Trương Quang T; có 02 con, sinh năm 2012 và 2021; tiền sự, tiền án: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khởi nơi cư trú; có mặt.

3. Bị cáo Cao Đức Th, sinh năm 1993 tại Khánh Hòa; nơi cư trú: Tổ X, thôn T, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; chỗ ở: Phòng trọ thôn T, xã V, thành phố N; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch Việt Nam; con ông Cao Lê Thành N (chết) và bà Lê Thị D; có vợ là Lê Võ Thu L; có 02 con, sinh năm 2013 và một người con đã chết; tiền sự, tiền án: không; Bị can bị tạm giữ từ ngày 31/01/2021 đến ngày 09/02/2021 sau đó bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Cao Thị Bích L; nơi cư trú: Tổ X, thôn T, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 31/01/2021, trong khi tuần tra tại khu vực đình Đ, thuộc thôn Đ, xã V, thành phố Nha Trang, Tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an thành phố Nha Trang phát hiện Cao Đức Th đang điều khiển xe máy hiệu Honda Vision, màu đỏ đen, biển kiểm soát 79N2-xxxx, có biểu hiện nghi vấn về ma túy nên tiến hành kiểm tra giấy tờ tùy thân. Tại đây, Cao Đức Th tự nguyện lấy trong người ra giao nộp cho Tổ công tác: 01 bịch nylon, kích thước (1,5x2) cm, bên trong chứa chất tinh thể đá màu trắng (được niêm phong, ký hiệu A) và khai nhận đây là ma túy “khay” mua của vợ chồng đối tượng “Cọt” tại phòng trọ thuộc tổ X, thôn V, xã V, thành phố Nha Trang với giá 300.000 đồng để sử dụng cho bản thân.

Tổ công tác tiến hành niêm phong toàn bộ tang vật và đưa Cao Đức Th về trụ sở làm việc.

Căn cứ vào lời khai của Cao Đức Th, khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, Tổ công tác phối hợp với Công an xã V, thành phố N tiến hành kiểm tra phòng trọ trên và đưa 02 đối tượng Trương Quang T, Nguyễn Thị Ngọc L về trụ sở làm việc. Tại Cơ quan điều tra, T, L thừa nhận việc bán ma túy như trên cho Th.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của T, L tại phòng trọ không số thuộc tổ X thôn V, xã V, thành phố N, Tổ công tác phát hiện và thu giữ như sau:

- 01 bịch nylon màu trắng, kích thước (1,5x82) cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (được niêm phong, ký hiệu B).

- 01 bình thủy tinh, trên đầu có gắn ống thủy tinh hình trụ tròn.

- 07 ống thủy tinh dài khoảng 12cm, một đầu được thổi thành hình tròn.

- Nhiều bịch nylon màu trắng, có khóa khằn miệng, kích thước (2x2) cm, bên trong không chứa gì.

- Số tiền 1.300.000 Việt Nam đồng.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu vàng, số thuê bao 0901910479.

Theo trình bày của Trương Quang T và Nguyễn Thị Ngọc L số ma túy bị thu giữ là để nhằm mục đích bán cho người khác, kiếm lời.

Quá trình điều tra, xác định: Trương Quang T và Nguyễn Thị Ngọc L chung sống với nhau như vợ chồng tại phòng trọ không số, thuộc tổ X thôn V, xã V, thành phố N. Trương Quang T, Nguyễn Thị Ngọc L đã có hành vi mua bán trái phép chất ma túy trước khi bị phát hiện khoảng 02 tháng. Để có ma túy bán lại cho người khác, kiếm lời, Trúc sử dụng số điện thoại 0901910479 để gọi vào số điện thoại 0936797953 của một đối tượng tên “Điệp” (hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch) ở khu vực Lầu 7, phường V, thành phố Nha Trang để mua ma túy “đá”, với số tiền từ 1.800.000 đồng đến 3.200.000 đồng. Sau khi có được ma túy “đá”, T đem về phòng trọ, phân nhỏ ra thành từng túi nylon nhỏ để bán lại cho người khác với giá từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng, rồi đem dán các túi nylon này ở bờ tường khu vực cổng ra vào phòng trọ. Khi có người hỏi mua ma túy thì đứng ngoài cổng, dùng tay đưa tiền vào cho T hoặc L; T, L nhận tiền xong sẽ chỉ vị trí để ma túy trên bờ tường và người mua tự lấy ma túy. Nguyễn Thị Ngọc L không tham gia vào quá trình mua, phân chia nhỏ ma túy “đá” mà chỉ giúp sức cho Trương Quang T trong việc bán ma túy cho người khác.

Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 31/01/2021, Cao Đức Th điều khiển xe máy hiệu Honda Vision, biển kiểm soát 79N2-588.69 đến phòng trọ của Trương Quang T, Nguyễn Thị Ngọc L với mục đích mua ma túy sử dụng. Tại đây, Th gặp L và hỏi mua “bịch ba ma túy đá”, L đi vào phòng trọ thông báo với T về việc có người hỏi mua ma túy, T đồng ý bán nên L quay trở ra ngoài cổng phòng trọ, nhận số tiền 300.000 đồng từ Th và chỉ cho Th lấy ma túy trên bờ tường. Sau khi Th mua được ma túy, trên đường đi về thì bị Tổ công tác phát hiện và bắt giữ như trên.

Ngoài ra, Cao Đức Th khai nhận đã 05 lần mua ma túy của Trương Quang T và Nguyễn Thị Ngọc L để sử dụng cho bản thân, trong đó T 03 lần bán trực tiếp cho T, L 02 lần bán trực tiếp cho Th. Trương Quang T cũng thừa nhận cùng Nguyễn Thị Ngọc L bán ma túy nhiều lần cho Cao Đức Th.

Tại Kết luận giám định số 143/GĐTP/2021 ngày 05/02/2021 của Phòng kỹ thuật – Công an thành phố Nha Trang kết luận:

- Tinh thể màu trắng trong mẫu ký hiệu A gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,1759g.

- Tinh thể màu trắng trong mẫu ký hiệu B gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,1623g.

Tại bản cáo trạng số 176/CT-VKS ngày 09 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố Trương Quang T và Nguyễn Thị Ngọc L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Truy tố ra bị cáo Cao Đức Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên nội dung đã truy tố đối với bị cáo Trương Quang T, Nguyễn Thị Ngọc L và Cao Đức Th và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Trương Quang T từ 08 đến 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm n khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Thị Ngọc L từ 08 đến 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Cao Đức T từ 01 năm đến 01 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về xử lý vật chứng: Tuyên tịch thu tiêu hủy tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và dụng cụ sử dụng ma túy; tịch thu số tiền 1.300.000 đồng và 01 điện thoại di động Iphone; tuyên án phí, quyền kháng cáo theo quy định.

Tại phiên tòa bị cáo Trương Quang T và Cao Đức Th thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về làm lại cuộc đời.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L cho rằng bị cáo chỉ nhận tiền theo chỉ đạo của T, bị cáo không biết đó là tiền mua bán ma túy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện, tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, và người làm chứng vắng mặt không có lý do. Xét thấy sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 292, 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về hành vi phạm tội [2.1] Đối với bị cáo Trương Quang T Tại phiên tòa bị cáo Trương Quang T khai nhận: Bị cáo là người nghiện ma túy và biết đối tượng tên “Điệp” có số điện thoại là 0936797953 ở khu vực Lầu 7, phường V, thành phố Nha Trang là người bán ma túy “đá”. Với mục đích mua ma túy về bán lại kiếm lời. Bị cáo đã nhiều lần mua ma túy của đối tượng nói trên. Sau khi có được ma túy “đá”, bị cáo đã phân nhỏ ra thành từng túi nylon nhỏ để bán lại cho người khác với giá từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng. Cách thức bán ma túy là đem dán các túi nylon chứa ma túy ở bờ tường khu vực cổng ra vào phòng trọ. Khi có người hỏi mua ma túy thì đứng ngoài cổng, dùng tay đưa tiền vào cho bị cáo hoặc bị cáo L (là người sống chung như vợ chồng với bị cáo). Sau khi bị cáo hoặc Lam nhận tiền xong sẽ chỉ vị trí để ma túy trên bờ tường và người mua tự lấy ma túy. Bị cáo đã nhiều lần bán ma túy cho Cao Đức Th, lần gần nhất bị cáo bán cho Thành là ngày 31/01/2021. Bị cáo bán ma túy 05 lần cho Cao Đức Th. Trong đó bị cáo bán trực tiếp 03 lần cho Th, bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L 02 lần bán trực tiếp cho Th.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với lời khai của bị cáo L và Th trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của Th tại phiên tòa, cũng như phù hợp với các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở kết luận hành vi nhiều lần mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[2.2] Đối với bị cáo Cao Đức Th: Tại phiên tòa, bị cáo Cao Đức Th khai nhận bị cáo là người nghiện mua túy và đã 05 (năm) lần mua ma túy của bị cáo Trương Quang T và Nguyễn Thị Ngọc L. Trong đó có 02 lần bị cáo trực tiếp mua của Nguyễn Thị Ngọc L. Lúc khoảng 10 giờ 20 phút ngày 31/01/2021 bị cáo sau khi mua ma túy của Nguyễn Thị Ngọc L xong thì bị kiểm tra và phát hiện. Bị cáo thừa nhận khối 0,1759g lượng ma túy Methamphetamine mà cơ quan giám định xác định là của bị cáo.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với lời khai của bị cáo T và L trong hồ sơ vụ án, cũng như phù hợp với lời khai của Trúc tại phiên tòa, phù hợp với các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở kết luận hành vi tàng trữ 0,1759g Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[2.3] Đối với bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L không thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo cho rằng bị cáo chỉ nhận tiền theo chỉ đạo của bị cáo T, bị cáo không biết tiền đó là tiền do mua bán trái phép chất ma túy. Về nội dung này, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Tại biên bản sự việc lập lúc 13 giờ 00 ngày 31/01/2021 tại Công an xã V, thành phố Nha T, bị cáo L khai “Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 31/01/2021, tôi cùng anh Trúc chồng tôi đang ở phòng trọ thì có nam thanh niên tới nói lấy “Lấy em cái 3” tức là hỏi mua bịch ma túy giá 300.000 đồng), tôi nghe vậy thì quay lại nói với anh T chồng tôi là “có thằng đến lấy cái 3” thì anh T đồng ý và nói bịch ma túy đã dán sẵn trên vách tường. Sau đó, tôi quay ra gặp nam thanh niên, nam thanh niên đưa cho tôi số tiền 300.000 đồng, tôi cầm tiền rồi chỉ cho nam thanh niên bịch ma túy “đá” dán sẵn trên vách tường, nam thanh niên đến lấy bịch ma túy “đá” rồi ra về”.

Tại các bản tự khai bút lục số 113, 114, 115 bị cáo đã tự mình khai báo hành vi nhiều lần bán ma túy cho bị cáo Th, số tiền nhận, ngày tháng năm bán, cách thức bán ma túy, nơi cất dấu ma túy, cũng như tại các Biên bản lấy lời khai tại các bút lục số 116, 117, 119 bị cáo đã tự mình khai báo ra hành vi giúp sức bán ma túy cho bị cáo T (người mà bị cáo gọi là chồng). Tại cuối các biên bản lấy lời khai bị cáo đã ghi “Tôi đã tự đọc lại biên bản công nhận ghi đúng lời tự khai. Tôi tự nguyện khai báo không ai ép buộc” và ký tên mình vào biên bản. Tại Bản ảnh nhận dạng và Biên bản nhận dạng lập lúc 18 giờ 50 ngày 31 tháng 01 năm 2021 bị cáo đã ghi lời trình bày của mình “ ..tôi nhận ra người trong ảnh số 3 là người thanh niên đã mua ma túy của tôi và T vào sáng ngày 30 và ngày 31/01/2021 tại phòng trọ của tôi và T...” (BL 134-136). Lời trình bày của bị cáo tại biên bản nhận dạng này phù hợp với lời trình bày của bị cáo Cao Đức Th tại Biên bản nhận dạng, Bản ảnh nhận dạng lập lúc 19 giờ 10 ngày 31/01/2021 (BL 131-133).

Các lời khai, tài liệu mà Hội đồng xét xử vừa đề cập phù hợp với lời khai của bị cáo Trương Quang T có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa thể hiện bị cáo L và bị cáo T sống chung như vợ chồng. Bị cáo đã biết rõ T mua bán ma túy và đã hai lần giúp T bán ma túy cho Cao Đức Th. Lời khai của bị cáo T là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo Cao Đức Th có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa.

Ngoài ra, sau khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Tòa án đã nhận được văn bản của Cơ quan Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang và Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang khẳng định những người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra đối với bị cáo là hoàn toàn đúng quy định của bộ luật tố tụng hình sự. Không có việc ép cung bị cáo như bị cáo trình bày.

Do đó, việc bị cáo cho rằng bị cáo không phạm tội là không có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận.

Từ các nhận định trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định bị cáo biết rõ bị cáo Trương Quang T là người mua ma túy về bán lại cho con nghiện. Với tư cách là người sống như vợ chồng với bị cáo T, bị cáo đã 02 (hai) lần trực tiếp bán ma túy cho bị cáo Cao Đức Th. Lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án phù hợp với lời khai của bị cáo Trương Quang T và Cao Đức Th có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo là đồng phạm cùng với các bị cáo Trương Quang T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

[3] Từ các phân tích, nhận định nói trên, có đủ cơ sở để khẳng định Cáo trạng số 176/CT-VKS ngày 09 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang truy tố các bị cáo Trương Quang T, Nguyễn Thị Ngọc L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 và bị cáo Cao Đức Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý về chất ma túy của Nhà nước. Các bị cáo nhận thức rõ chất ma túy bị pháp luật cấm nhưng vẫn mua bán và sử dụng. Hành vi phạm tội của các bị cáo còn là nguyên nhân phát sinh một số loại tội phạm khác, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt các bị cáo một mức án nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, cách ly các bị cáo một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo, cũng như phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Tuy nhiên, xét thấy sau khi phạm tội các bị cáo Trương Quang T, Cao Đức Th đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình; các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu. Do vậy, các bị cáo Trương Quang T, Cao Đức Th được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 và áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo, sớm trở thành người có ích cho xã hội.

Riêng bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L giai đoạn đầu của quá trình điều tra có thành khẩn khai báo, nhưng sau đó đã thay đổi lời khai. Tại phiên tòa bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Do vậy, bị cáo không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ hình phạt quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, khi phạm tội bị cáo là người đang mang thai, hiện đang phải nuôi hai con nhỏ dại, hoàn cảnh khó khăn; bị cáo cũng chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu. Do vậy, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm n khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo, sớm trở thành người có ích cho xã hội.

Về mức hình phạt đối với Trương Quang T và Nguyễn Thị Ngọc L. Trong vụ án này bị cáo Trương Quang T là người đóng vai trò chính, nên mức hình phạt cao hơn bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L mới phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa nhận thấy các bị cáo không có nghề nghiệp, không có kinh tế, nên Hội đồng xét xử không xử phạt bổ sung.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Khi bắt người phạm tội quả tang, cơ quan điều tra đã thu giữ của Cao Đức Th một xe máy hiệu Honda Vision, màu đỏ đen, biển kiểm soát 79N2-588.69. Quá trình điều tra, đã xác định xe máy này của bà Cao Thị Bích L. Bà L cho bị cáo Th mượn, và không biết Th sử dụng vào việc phạm tội, nên cơ quan điều tra đã trả cho bà Liên đúng quy định, nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu vàng, số thuê bao 0901910479 là của bị cáo Trương Quang T. T dùng điện thoại để liên lạc việc mua bán trái phép chất ma túy, do đó cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- Số tiền 1.300.000 Việt Nam đồng: đang tạm gửi tại Kho bạc Nhà nước thành phố Nha Trang. Đây là tiền do phạm tội mà có, nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- Các vật chứng sau đây là vật chứng của tội phạm không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy:

+ Mẫu vật A, B sau giám định không được hoàn lại.

+ 01 bình thủy tinh, trên đầu có gắn ống thủy tinh hình trụ tròn: đang tạm giữ, chờ xử lý.

+ 07 ống thủy tinh dài khoảng 12cm, một đầu được thổi thành hình tròn: đang tạm giữ, chờ xử lý.

+ Nhiều bịch nylon màu trắng, kích thước (2x2)cm, bên trong không chứa gì:

đang tạm giữ, chờ xử lý.

[8] Kiến nghị cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiếp tục điều tra đối tượng “Điệp” người đã bán ma túy cho bị cáo Trương Quang T để xử lý theo quy định.

[9] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

1. Về tội danh và hình phạt:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trương Quang T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 31/01/2021.

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm n khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Cao Đức Th 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Bị cáo được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 31/01/2021 đến ngày 09/02/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét phần trách nhiệm dân sự đối với bà Cao Thị Bích Liên.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

3.1. Tịch thu tiêu hủy:

- 01 bình thủy tinh, trên đầu có gắn ống thủy tinh hình trụ tròn:

- 07 ống thủy tinh dài khoảng 12cm, một đầu được thổi thành hình tròn:

- Nhiều bịch nylon màu trắng, kích thước (2x2)cm, bên trong không chứa gì:

3.2. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu vàng, số thuê bao 0901910479 và số tiền 1.300.000 đồng.

Số vật chứng tịch tiêu hủy, tịch thu nộp ngân sách Nhà nước theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/6/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang và Giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước số 2313713 ngày 27 tháng 5 năm 2021.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

549
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 80/2022/HS-ST

Số hiệu:80/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;