Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 19/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN BÀN, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 19/2022/HS-ST NGÀY 20/05/2022 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20/5/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2022/QĐXXST-HS ngày 09/5/2022 đối với các bị cáo:

1. Đào Minh A (tên gọi khác: Không). Sinh ngày: 19/01/1997, tại huyện V, tỉnh L.

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã L, huyện V, tỉnh L.

Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam;

Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Đào Mạnh T, sinh năm 1968; con bà Nguyễn Thị Sơn H, sinh năm 1969. Hiện đều trú tại: xã L, huyện V, tỉnh L.

Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: Bản án số 03/2015 ngày 15/01/2015 Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, g, p khoản 1, khoản 2 điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; điều 20, điều 53, điều 68, điều 69, điều 74; khoản 2 điều 51 BLHS tuyên phạt Đào Minh A 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” Áp khoản 1 Điều 139; điểm b, g ,p khoản 1, khoản 2 điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; điều 20, điều 53, điều 68, điều 69, điều 74; khoản 2 điều 51 BLHS tuyên phạt Đào Minh A 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Áp dụng điều 50, khoản 1 Điều 51 BLHS tổng hợp hình phạt cả hai tội là 12 tháng tù; Áp dụng Điều 50, khoản 1 Điều 52 BLHS Tổng hợp Bản án số 39/2014 ngày 08/9/2014 Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn, đã tuyên phạt Đào Minh A 05 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản” và Bản án số 41/2014 ngày 27/8/2014 Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tuyên phạt Đào Minh A 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Buộc Đào Minh A chấp hành hình phạt chung của 03 bản án là 07 năm tù. Tại bản án số 59/2014/ HSST ngày 23/12/2014 của Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46; các Điều 20, 53, 69, 74; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt 08 (tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản.” Đã chấp hành xong tiền án phí và tiền truy thu sung quỹ nhà nước, chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/5/2020.

Tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/3/2022 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai - Có mặt.

2. Thể Văn C (tên gọi khác: Không). sinh ngày 06/8/1987 tại huyện V, tỉnh L; Nơi cư trú: Thôn K, xã C, huyện V, tỉnh L; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 09/12; Dân tộc: Tày; giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Thể Văn C (đã chết) và bà Lự Thị H, sinh năm 1960; có vợ là chị Hoàng Thị N, sinh năm 2001; Bị cáo có 01 con sinh năm 2018.

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/3/2022 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai - Có mặt.

* Những người làm chứng:

1. Anh Ngân Văn C - sinh năm1992 - Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn B, xã K, huyện V, tỉnh L.

2. Anh Tráng A D - sinh năm 1988 – Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn K, xã L, huyện V, tỉnh L.

3. Anh Tráng A K - sinh năm 1998 - Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn N, xã K, huyện Văn Bàn, tỉnh L.

4. Ông Vi Văn T - sinh năm1972 – Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện V, tỉnh L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo cáo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 15 phút ngày 15/3/2022, tổ công tác Công an huyện V đang làm nhiệm vụ trên địa bàn xã L, nhận thấy tại nhà Đào Minh A - sinh năm 1997, thôn Đ, xã L có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Tổ công tác đã đến nhà Đào Minh A để kiểm tra thì phát hiện và bắt quả tang Đào Minh A đang bán trái phép chất ma túy cho Ngân Văn T - sinh năm 1992, trú tại xã K, huyện V. Khi được yêu cầu Ngân Văn T đã tự giác giao nộp: 01 gói giấy bạc đang cầm trên tay phải, bên trong chứa chất bột khô, màu trắng, vón cục và khai là ma túy vừa mua được của Đào Minh A với giá 100.000đ; Đào Minh A cũng tự giác lấy trong túi quần sau bên phải ra một tờ tiền mệnh giá 100.000đ giao nộp và khai là tiền vừa bán ma túy cho T mà có.

Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng. Tiến hành khám xét chỗ ở của Đào Minh A nhưng không phát hiện, thu giữ gì.

Về nguồn gốc ma túy ban đầu Đào Minh A khai là tối ngày 14/3/2022 mua được của Thể Văn C ở thôn K, xã C, huyện V.

Cơ quan điều tra tiến hành khám xét chỗ ở đối với: Thể Văn C trú tại thôn K, xã C. Quá trình khám xét Thể Văn C đã tự giác lấy trên nóc tủ trong phòng ngủ ra 01 lọ nhựa màu xanh, có nắp đậy bên trong đựng 02 túi zíp màu trắng, bên trong đều chứa các tinh thể màu trắng giao nộp và khai là ma túy đá.

Nguồn gốc số ma túy C khai cách ngày bị bắt khoảng một tuần, C đi xe ô tô từ L về V, ngồi cùng ghế với một người đàn ông giới thiệu tên là H, C cũng giới thiệu tên và nói nhà ở cổng đền C, hẹn H khi nào có dịp qua thì vào nhà C chơi, khi về đến V thì H xuống xe. Đến khoảng 14 giờ ngày 14/3/2022, H đến nhà C chơi một lúc rồi đưa cho C 02 túi zíp màu trắng bên trong có tinh thể màu trắng nói là ma túy đá gửi C giữ hộ 02 ngày sau có người đến lấy, C đồng ý cầm 02 gói ma túy đá cất vào lọ nhựa màu xanh, có nắp đậy để trên nóc tủ trong phòng ngủ. Đến ngày 15/3/2022 Công an khám xét C đã giao nộp.

Kết luận giám định số 71 ngày 18/3/2022 của Phòng KTHS Công an tỉnh Lào Cai, Kết luận; 0,0472 gam Chất bột khô, màu trắng, vón cục thu giữ của Ngân Văn T ngày 15/3/2022 là loại chất ma túy Heroine.

Kết luận giám định số 72 ngày 18/3/2022 của Phòng KTHS Công an tỉnh Lào Cai, Kết luận; 1,70 gam Các tinh thể màu trắng thu giữ của Thể Văn C ngày 15/3/2022 là loại chất ma túy Methamphetamine.

Cáo trạng số 10/CT-VKS ngày 12/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Đào Minh A về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Thể Văn C về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai qua thẩm vấn đã làm rõ và nêu quan điểm luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đào Minh A và Thể Văn C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo Thể Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đào Minh A từ 02 năm tù đến 02 năm 03 tháng tù.

- Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Thể Văn C từ 02 năm tù đến 02 năm 03 tháng tù.

Xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: - Tịch thu tiêu hủy: 1,52 gam Methamphetamine còn lại sau giám định; 01 lọ nhựa; 02 túi zíp đã thu giữ của Thể Văn C.

- Tịch thu tiêu hủy: Mảnh giấy bạc mầu trắng đã thu giữ của Đào Minh A.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 100.000đ tiền do phạm tội mà có đã thu giữ của bị cáo Đào Minh A.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo, tại phiên toà các bị cáo khai nhận:

Đào Minh A là đối tượng có sử dụng ma túy, tối ngày 14/3/2022 đã mua của một người phụ nữ dân tộc Mông ở N, xã K 01 gói Heroine có khối lượng 0,0472 gam với giá 50.000đ mục đích để sử dụng. Khoảng 09 giờ 15 phút ngày 15/3/2022, bị cáo A đang ở nhà thì có Ngân Văn C đến hỏi mua ma túy, bị cáo hám lời nên đã bán cho Ngân Văn C gói ma túy đã mua với giá 100.000đ thì bị Công an huyện V bắt quả tang. Ngân Văn T đã tự giác giao nộp gói Heroine vừa mua, Đào Minh A cũng tự giác giao nộp 100.000đ tiền bán Heroine cho C mà có. Ban đầu Đào Minh A khai mua Heroine của Thể Văn C ở thôn K, xã C, huyện V, tỉnh L.

Khoảng 12 giờ 40 ngày 15/3/2022, bị cáo Thể Văn C đang ở nhà thì Công an huyện V đến khám xét nhà. Quá trình khám xét bị cáo C đã tự giác lấy trên nóc tủ trong phòng ngủ ra 01 lọ nhựa màu xanh, có nắp đậy bên trong đựng 02 túi zíp màu trắng, bên trong đều chứa 1,70gam Methamphetamine giao nộp. Nguồn gốc số ma túy bị cáo C giao nộp do một người tên là H đến nhà chơi và gửi giữ hộ.

Như vậy, lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Ban đầu bị cáo Đào Minh A khai mua Heroine của bị cáo Thể Văn C, quá trình điều tra bị cáo C không thừa nhận bán Heroine cho Đào Minh A. Sau đó bị cáo A thay đổi lời khai mua ma túy của một người phụ nữ dân tộc Mông ở N, xã K. Nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm độc lập với hành vi vi phạm pháp luật của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Đào Minh A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theokhoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự; bị cáo Thể Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát truy tố là đúng người, đúng tội.

[3] Hội đồng xét xử đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân các bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương. Các bị cáo là người có nhận thức và hiểu biết pháp luật nghiêm cấm các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép các chất ma túy; hiểu rõ ma túy là loại độc dược nguy hiểm ảnh hưởng đến sức khỏe con người nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân dẫn đến hành vi phạm tội. Ngoài ra bị cáo Thể Văn C ngày 08/4/2022 bị Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn xử phạt 07 (bẩy) tháng tù về tội “Đánh bạc”, bị cáo phạm tội mới trong thời gian chuẩn bị xét xử tội “Đánh bạc”, bản án này chưa có hiệu lực pháp luật nhưng thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo.

Đối với bị cáo Đào Minh A: Là đối tượng sử dụng ma túy ngoài ra ngày 09/4/2012 bị Ủy ban nhân dân huyện V Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng với thời hạn 12 tháng.

Nên xét cần phải có một hình phạt thật nghiêm khắc đối với các bị cáo để cải tạo giáo dục các bị cáo thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Đối với Thể Văn C không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự do bản án số 11/2022/HS-ST ngày 08/4/2022 xử phạt Thể Văn C 07 (bẩy) tháng tù về tội “Đánh bạc” chưa có hiệu lực pháp luật.

Đối với Đào Minh A: Bản án số 03/2015 ngày 15/01/2015 Tòa án nhân dân TP Lào Cai, áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, g, p khoản 1, khoản 2 điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; điều 20, điều 53, điều 68, điều 69, điều 74; khoản 2 điều 51 BLHS tuyên phạt Đào Minh A 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” Áp khoản 1 Điều 139; điểm b, g, p khoản 1, khoản 2 điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; điều 20, điều 53, điều 68, điều 69, điều 74; khoản 2 điều 51 BLHS tuyên phạt Đào Minh A 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Áp dụng điều 50, khoản 1 Điều 51 BLHS tổng hợp hình phạt cả hai tội là 12 tháng tù; Áp dụng Điều 50, khoản 1 Điều 52 BLHS Tổng hợp Bản án số 39/2014 ngày 08/9/2014 Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn, đã tuyên phạt Đào Minh A 05 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản” và Bản án số 41/2014 ngày 27/8/2014 Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tuyên phạt Đào Minh A 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Buộc Đào Minh A chấp hành hình phạt chung của 03 bản án là 07 (bẩy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/6/2014. Tại bản án số 59/2014/HSST ngày 23/12/2014 của Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46; các Điều 20, 53, 69, 74; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt 08 (tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản.” Tại Quyết định tổng hợp hình phạt số 04 ngày 02/6/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai buộc bị cáo Đào Minh A chấp hành 07 năm 08 tháng tù cho các tội đã bị xét xử. Bị cáo đã chấp hành xong tiền án phí và tiền truy thu sung quỹ nhà nước, chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/5/2020.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 107 Bộ luật Hình sự quy định về xóa án tích của người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án. Do Đào Minh A bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý nên không được coi là không có án tích và chưa đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích. Như vậy lần phạm tội này là “tái phạm” bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Ngoài ra Đào Minh A có bà ngoại có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước được tặng thưởng Huy chương kháng chiến. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt tù cho các bị cáo để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Chính quyền địa phương xác nhận đối với bị cáo Thể Văn C sống bằng nghề tự do thu nhập chỉ đủ sinh hoạt cho gia đình, bản thân không có tài sản gì có giá trị; Đối với bị cáo Đào Minh A là người sử dụng ma túy, sống phụ thuộc vào Bố, Mẹ bản thân không có tài sản riêng gì có giá trị. Vì vậy Hội đồng xét xử không phạt bổ sung đối với các bị cáo là phù hợp.

[7] Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ gồm:

- Thu giữ của Ngân Văn C 0,0472gam Heroine. Thu giữ của Thể Văn C 1,70 gam Methamphetamine. Cơ quan điều tra gửi giám định, cơ quan giám định lưu mẫu 0,0472 gam Heroine và 0,18 gam Methamphetamine. Còn lại 1,52 Methamphetamine, 01 lọ nhựa và 02 túi zíp, thu giữ của Thể Văn C; mảnh giấy bạc màu trắng cần tịch thu để tiêu hủy.

- Đối với số tiền 100.000đ Đào Minh A giao nộp là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu sung ngân sách nhà nước;

[8] Về các tình tiết khác của vụ án:

Đối với Ngân Văn T là người nghiện chất ma túy ngày 15/3/2022 đã mua 0,0472 gam Heroine để sử dụng nên Công an huyện Văn Bàn đã xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

Đối với người đàn ông tên H đã đưa ma túy để bị cáo C giữ hộ và người phụ nữ đã bán ma túy cho Đào Minh A ngày 14/3/2022, Quá trình điều tra không xác định được họ tên, địa chỉ khi nào điều tra rõ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đào Minh A phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo Thể Văn C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đào Minh A 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/3/2022, ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Thể Văn C 02 (hai) năm tù thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/3/2022, ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 1,52 gam Methamphetamine còn lại sau giám định; 01 lọ nhựa; 02 túi zíp đựng trong 01 (một) bì niêm phong còn nguyên vẹn, trên một mặt của bì có ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi khám xét chỗ ở của Thể Văn C ngày 15/3/2022 tại xã C, huyện V, tỉnh L. Mặt còn lại của bì có chữ ký và dấu tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai.

- Tịch thu tiêu hủy: Mảnh giấy bạc mầu trắng đựng trong 01 (một) bì niêm phong còn nguyên vẹn, trên một mặt của bì có ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi bắt quả tang Đào Minh A và Ngân Văn C 15/3/2022 tại xã L, huyện V, tỉnh L. Mặt còn lại của bì có chữ ký và dấu tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 100.000đ (một trăm nghìn đồng) tiền do phạm tội mà có đã thu giữ của bị cáo Đào Minh A.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Các bị cáo Đào Minh A, Thể Văn C mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các điều 6, điều 7, điều 7a và điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 19/2022/HS-ST

Số hiệu:19/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Bàn - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;