TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 08/2021/HS-PT NGÀY 14/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1025/2020/TLPT-HS ngày 11 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Huy Ngọc L phạm các tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, “Mua bán trái phép chất ma túy” do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 411/2020/HS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Huy Ngọc L, sinh năm 1990; nơi ĐKHKTT và nơi ở: Tổ 09, phường Q, thành phố B, tỉnh B; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá (học vấn): Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Huy Q và con bà Nguyễn Thị T; có vợ là Bùi Ngọc C và 03 con (con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2017); tiền án, tiền sự: Không; bị bắt ngày 18/11/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 01 - Công an thành phố Hà Nội; có mặt.
- Người bào chữa do Tòa án chỉ định cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Quang T - Văn phòng luật sư Đ và Cộng sự thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 17/11/2019, tại khu vực trước cổng chùa S số 386 đường A, phường B, quận C, thành phố Hà Nội, tổ công tác Y28-141 Công an thành phố Hà Nội tiến hành kiểm tra hành chính xe ôtô taxi của hãng Taxi Vic BKS: 30A-77304 do anh Trần Khánh D (SN: 1979, HKTT số 13 đường T, phường F, quận K, Hà Nội) điều khiển. Trong khi kiểm tra hành chính Cơ quan Công an yêu cầu Nguyễn Huy Ngọc L - ngồi ghế phụ phía trước để túi xách màu đen đang đeo trên người lên nắp Capo xe Taxi và tự lấy các đồ trong túi ra để kiểm tra, L không chấp hành mà bỏ chạy về phía đường Nguyễn Hoàng T thì bị tổ công tác bắt giữ. Sau đó, L tự tay lấy trong túi xách màu đen ra 01 túi nilon màu trắng chứa 128 viên nén hình đỏ đậm in hình đầu con thỏ; 01 túi nilon màu trắng chứa 180 viên nén hình đỏ đậm in hình đầu con thỏ và 01 hộp hình chữ nhật màu hồng một mặt in hình con mèo bên trong có 01 túi nilon màu trắng chứa tinh thể màu trắng, giao nộp cho tổ công tác và khai là ma túy mua để mang về B bán kiếm lời nên lực lượng Công an tiến hành bắt giữ quả tang cùng vật chứng.
Vật chứng:
* Thu giữ của Nguyễn Huy Ngọc L:
- 01 túi xách màu đen (KT 20x25cm) bên trong có:
+ 01 hộp hình chữ nhật màu hồng một mặt in hình con mèo (KT 11x07x03cm) bên trong có 01 túi nilon màu trắng (KT 7x12cm) chứa tinh thể màu trắng;
+ 01 túi nilon màu trắng (KT 7x12cm) chứa 128 viên nén hình đỏ đậm in hình đầu con thỏ;
+ 01 túi nilon màu trắng (KT 7x12cm) chứa 180 viên nén hình đỏ đậm in hình đầu con thỏ;
- 01 điện thoại di động Nokia màu đen;
- 01 điện thoại di động Iphone màu hồng;
- Số tiền 780.000 đồng.
* Thu giữ của anh Trần Khánh D:
- 01 xe ôtô KIA Morning màu trắng BKS: 30A-773.04;
- 01 điện thoại di động Nokia.
Ngày 19/11/2019, Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Huy Ngọc L tại tổ 9 đường Lý Thái Tông, phường Chăm Mát, thành phố B, tỉnh B thu giữ trên nóc tủ 02 túi nilon (KT 6x4cm) bên trong có chứa tinh thể màu trắng, 01 cân điện tử hình vỏ bao thuốc lá Marlono.
Tại Kết luận giám định số 7421 ngày 27/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thàng phố Hà Nội xác định:
- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy Methamphetamine, khối lượng 103,294 gam.
- 308 viên nén hình đỏ đậm, trên bề mặt mỗi viên có in hình đầu con thỏ đều là ma túy loại MDMA và ma túy Methamphetamine, tổng khối lượng 97,603 gam.
Tại Kết luận giám định số 7551 ngày 04/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thàng phố Hà Nội xác định:
- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 6,157 gam;
- Tinh thể trong 01 túi nilong không phải là ma túy, khối lượng 5,517 gam;
- 01 cân điện tử hình vỏ bao thuốc lá Marlono có dính ma túy loại Methamphetamine.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Huy Ngọc L khai: Thông qua giới thiệu của một người tên Đ (không rõ nhân thân lai lịch), L biết người đàn ông tên Hải “chém” (không rõ nhân thân lai lịch) sử dụng số điện thoại 0334294373 ở Hà Nội có bán ma túy. Tối ngày 14/11/2019, L ở B và sử dụng số điện thoại 0837727833 gọi vào số điện thoại của Hải để hỏi mua ma túy, Hải đồng ý bán ma túy cho L và thỏa thuận 100 gam ma túy đá giá 25.0000.000 đồng và 300 viên ma túy thuốc lắc giá 35.000.000 đồng, tổng số tiền mua bán ma túy là 60.000.000 đồng. L mua ma túy để bán cho Phạm Thị Diệu D (SN 1989, HKTT: Tổ 7, phường T, thành phố B, tỉnh B) sử dụng số điện thoại 0985766565 với số tiền 90.000.000 đồng.
Khoảng 16 giờ 30 ngày 17/11/2019, L đi taxi từ B đến Hà Nội và gọi điện thoại cho Hải, Hải nói chờ đến tối sẽ giao ma túy ở ngõ 67 đường C, quận Đ, Hà Nội. Đến 21 giờ 30 cùng ngày, L đi xe taxi đến ngõ 67 đường C thì gặp người thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi “gặp anh Hải à?”, L đã đưa cho người thanh niên này 60.000.000 đồng, người thanh niên nhận tiền và hướng dẫn L lấy ma túy để trong hộp màu hồng có hình mặt con mèo ở chân tường sát quán Karaoke gần đó. Sau khi L lấy được 01 hộp mầu hồng bên ngoài in hình con mèo bên trong có 01 túi nilon màu trắng chứa tinh thể màu trắng; 01 túi nilon màu trắng chứa viên nén hình đỏ đậm in hình đầu con thỏ; 01 túi nilon màu trắng chứa viên nén hình tròn màu đỏ đậm in hình đầu con thỏ; biết là ma túy nên L cất vào túi xách đem theo người và đi ra đầu ngõ 67 Văn Cao. Do có nhu cầu mua thêm cần sa nên L hỏi người thanh niên chỗ mua, người thanh niên bảo L cứ đi ra khu vực ngã tư đường Nguyễn Hoàng T gọi điện cho Hải sẽ cho người mang cần sa ra. L bắt xe taxi đi đến đường Nguyễn Hoàng T, khi đi đến khu vực trước cửa chùa S tại số 386 Lạc Long Q, Nhật T, Tây H thì bị Công an kiểm tra bắt giữ cùng vật chứng.
Đối với số ma túy bị thu giữ khi khám xét tại chỗ ở của Nguyễn Huy Ngọc L tại tổ 9 đường Lý Thái T, phường Chăm M, thành phố B, tỉnh B, L khai 01 gói ma túy được Đ cho trước khi bị bắt, tàng trữ ma túy để sử dụng; còn 01 gói tinh thể không phải là ma túy do L mua của một người không quen biết; 01 cân điện tử hình vỏ bao thuốc lá Marloro dùng để cân ma túy.
Quá trình điều tra vụ án, Nguyễn Huy Ngọc L thay đổi lời khai, xác định số ma túy mua của đối tượng Hải về để sử dụng. Tuy nhiên, căn cứ vào các lời khai ban đầu, bản tự khai của Nguyễn Huy Ngọc L và các tài liệu điều tra khác, đủ cơ sở để xác định Nguyễn Huy Ngọc L có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy.
* Kết quả thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm đối với các số điện thoại của bị can từ ngày 17/11/2020 như sau:
- Từ 16 giờ 26 phút đến 21 giờ 47 phút ngày 17/11/2019, L dùng số 0837727833 gọi điện, nhắn tin với số điện thoại 0334294373 của Hải “Chém” 7 cuộc. Vị trí cột sóng các cuộc điện thoại của L phù hợp với lộ trình đi từ B về Hà Nội mua ma túy của Nguyễn Huy Ngọc L.
* Căn cứ bản kê chi tiết cuộc gọi đi, gọi đến, tin nhắn điện thoại số 0334294373 của Hải “chém” xác định :
- Từ 16 giờ 26 phút đến 22 giờ 09 phút ngày 17/11/2019, Hải dùng số 0334294373 gọi điện, nhắn tin với số điện thoại 0837727833 của L 6 cuộc. Vị trí cột sóng số điện thoại của Hải ở khu vực Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội phù hợp với lời khai của Nguyễn Huy Ngọc L về việc mua bán trái phép chất ma túy ngày 17/11/2019.
* Căn cứ biên bản kiểm tra điện thoại số 0837727833 của Nguyễn Huy Ngọc L xác định:
- Hồi 21 giờ 47 phút ngày 17/11/2019 số điện thoại 0334294373 của Hải “chém” đến số điện thoại 0837727833 nội dung “ Em 6i nc con, 2, lenh nưa la het em a”. L khai nội dung tin nhắn trên về việc giao dịch mua bán ma túy ngày 17/11/2019.
Về đối tượng Phạm Thị Diệu D (SN 1989, trú tại tổ 18, phường Hữu Nghị, thành phố B, tỉnh B), qua xác minh hiện Phạm Thị Diệu D bị Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC04)- Công an tỉnh B khởi tố bị can, tạm giam từ ngày 14/02/2020 về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Phạm Thị Diệu D khai có quen biết với Nguyễn Huy Ngọc L nhưng không biết, không L quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy đối với L. Do đó, chưa đủ căn cứ xác định Phạm Thị Diệu D đồng phạm mua bán trái phép chất ma túy với L.
Về đối tượng Hải “chém”, dùng số điện thoại 0334294373, là người bán ma túy cho Nguyễn Huy Ngọc L và đối tượng giao ma túy cho L, do L không khai rõ tên, tuổi, địa chỉ, Cơ quan điều tra đã rà soát, xác minh nhưng không xác định được. Số điện thoại 0334294373 là thuê bao trả trước, đã đăng ký chủ thuê bao mang tên Bùi Hoàng N (SN 1997, HKTT: số nhà 11, ngõ 135, phố Phúc H, phường Phúc T, thành phố N, tỉnh N). Anh Bùi Hoàng N khai không đăng ký và sử dụng số thuê bao nêu trên.
Về đối tượng Đ, dùng số điện thoại 0902206775, là người giới thiệu Nguyễn Huy Ngọc L quen Hải “chém” và cho L 6,157 gam Methamphetamine bị thu giữ khi khám xét, do L không khai rõ họ tên, địa chỉ; Số điện thoại 0902206775 là thuê bao trả trước, đăng ký chủ thuê bao mang tên ông Trịnh Hoàng H (SN 1954, HKTT: thôn Thạch T, xã Thanh H, huyện S, tỉnh Q). Ông Trịnh Hoàng H khai không đăng ký và sử dụng số thuê bao nêu trên.
Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã quyết định tách rút tài liệu về các đối tượng Hải “chém”, Đ để điều tra làm rõ, xử lý sau.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 411/2020/HSST ngày 29 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:
Tuyên bố: Nguyễn Huy Ngọc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249 và điểm h khoản 4 Điều 251; Điều 55; khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Nguyễn Huy Ngọc L 20 (Hai mươi) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; 05 (Năm) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 25 (Hai mươi lăm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/11/2019.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 07/10/2020, bị cáo Nguyễn Huy Ngọc L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Huy Ngọc L thừa nhận mục đích đi mua ma túy về để bán kiếm lời; bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nêu quan điểm giải quyết vụ án: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Huy Ngọc L thừa nhận mục đích của bị cáo mua ma túy về để bán kiếm lời, và khẳng định Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng; bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, giảm cho bị cáo L từ 06 tháng đến 09 tháng về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Huy Ngọc L đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, để chấp nhận kháng cáo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo L.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Huy Ngọc L thừa nhận hành vi phạm tội của mình, mục đính của bị cáo là mua ma túy để bán kiếm lời; lời khai của bị cáo L phù hợp với lời khai ban đầu tại Cơ quan điều tra và phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ. Do đó, có đủ căn cứ kết luận: Ngày 17/11/2019, Nguyễn Huy Ngọc L có hành vi mua 200,897 gam ma túy MDMA và Methamphetamine tại ngõ 67 đường C, quận Đ, thành phố Hà Nội mục đích để đem về B bán kiếm lời; khi đi đến số 386 đường Lạc Long Q, Nhật T, Tây H, thành phố Hà Nội thì bị kiểm tra bắt giữ. Ngoài ra, Nguyễn Huy Ngọc L có hành vi tàng trữ 6,157 gam ma túy Methamphetamine tại tổ 9 đường Lý Thái T, phường Chăm M, thành phố B, tỉnh B mục đích để sử dụng. Hành vi của Nguyễn Huy Ngọc L đã bị Tòa án cấp sơ thẩm quy kết về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 và điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Huy Ngọc L: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo L, bị cáo không có tiền án tiền sự; gia đình có công với cách mạng, ông nội được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất, Huân chương chiến thắng hạng ba. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ mới được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cũng như đề nghị của luật sư, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội thành khẩn khai báo.
[3] Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Huy Ngọc L; sửa quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 411/2020/HS-ST ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về phần hình phạt đối với bị cáo L.
Tuyên bố: Nguyễn Huy Ngọc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249 và điểm h khoản 4 Điều 251; Điều 55; Điều 54; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Nguyễn Huy Ngọc L 19 (Mười chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; 05 (Năm) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo L phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 24 (Hai mươi tư) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/11/2019.
Án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 08/2021/HS-PT
| Số hiệu: | 08/2021/HS-PT |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Ngày ban hành: | 14/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về