Bản án về tội mua bán trái phép vũ khí quân dụng số 68/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 68/2022/HS-PT NGÀY 21/01/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 21 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đưa ra xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 495/2021/TLPT-HS ngày 20 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Văn S.

Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2021/HS-ST ngày 12 tháng 07 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Văn S (S), sinh năm 1988 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: chăn nuôi; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị Q; vợ: Nguyễn Thị Ngọc T (đã ly hôn), có hai người con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2015; sống chung như vợ chồng với Nguyễn Thị H; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2016/HS-ST ngày 20 tháng 9 năm 2016 bị Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre xử phạt 09 tháng tù về “Tội trộm cắp tài sản”; bị cáo tại ngoại (có mặt);

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn S: Luật sư Nguyễn Minh Trường S1 – Văn phòng Luật sư Nguyên H, Đoàn Luật sư tỉnh Tiền Giang (có mặt).

(Trong vụ án này còn có bị cáo Lê Văn T và các bị cáo khác không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn S nên Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn T là Ủy viên Ban thường vụ Huyện ủy, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Thạnh Phú, trong quá trình công tác từ năm 1990 đến năm 2020 có cất giữ 01 khẩu súng ngắn Colt’s 45 và 06 viên đạn nhưng không được Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép sử dụng theo quy định. Tháng 6/2020, T xây lại nhà riêng nên đến gặp ông Đặng Công T1 là Giám đốc Trung tâm văn hóa Thể thao và Truyền thanh huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre hỏi mượn Phòng hóa trang nam của Trung tâm để gửi nhờ tài sản thì ông T1 đồng ý. T đem tài sản của cá nhân, trong đó có 01 khẩu súng ngắn Colt’s 45 và 06 viên đạn đến cất tại phòng hóa trang nam của Trung tâm.

Khoảng 13 giờ ngày 16/8/2020, Võ Phúc H (sinh ngày 05/7/2005) lén lút đột nhập vào Trung tâm văn hóa Thể thao và Truyền thanh huyện Thạnh Phú để trộm cắp tài sản. H vào Phòng hóa trang nam lục tìm tài sản thì phát hiện 01 khẩu súng ngắn Colt’s 45 và 06 viên đạn đựng trong túi da màu đen xám. H lấy khẩu súng giấu vào hộc bàn cũ ở khu vực nhà xe, giấu 06 viên đạn vào lỗ viên gạch trên bức tường phía sau Trung tâm văn hóa rồi bỏ đi chơi game. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, H quay lại lấy khẩu súng đem đến bán cho Đào Minh Dương nhưng Dương không mua. Cùng lúc này, Phạm Tiểu M đến thấy H cầm khẩu súng nên M kêu H cùng về Nhà trọ 777 ở ấp Quí Đức A, xã Quới Điền, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre để sử dụng ma túy, việc bán khẩu súng tính sau. Sau khi sử dụng ma túy tại nhà trọ, M và H lấy khẩu súng ra xem, H nói bán khẩu súng cho M thì M từ chối. Lúc này, bà Lê Thị T2 là mẹ của M phát hiện, biết là súng thật nên la rầy và kêu M đem giao nộp cho Công an nhưng M không nghe lời. H kêu M tìm người mua để bán dùm khẩu súng thì M đồng ý. M gọi điện thoại cho Nguyễn Văn S nói H có khẩu súng muốn bán, S đồng ý mua, thỏa thuận trao đổi bằng ma túy đá và hẹn gặp tại nhà trọ. M lấy túi nylon màu đỏ đựng khẩu súng cùng H ra trước cổng nhà trọ chờ S. Khoảng 23 giờ cùng ngày, S điều khiển xe mô tô chở vợ là Nguyễn Thị H1 đến, M đưa cho S khẩu súng, S đưa lại cho M một tép ma túy đá do S mua của một người tên Kha vịt trước đó rồi cùng H1 lên xe về nhà. M trở vào nhà trọ đưa tép ma túy đá cho H nói có được là do bán khẩu súng rồi cùng H sử dụng. Sáng ngày 17/8/2020, H1 lấy khẩu súng đưa cho ông Nguyễn Văn T1 xem, ông T1 xác định là khẩu súng thật kêu đem giao nộp, H1 gọi điện thoại cho bà Nguyễn Thị M kể lại sự việc, bà M khuyên đến Công an huyện Thạnh Phú giao nộp khẩu súng nên H1 kêu S cùng đi đến Công an huyện Thạnh Phú giao nộp. Khi được Công an huyện Thạnh Phú yêu cầu, H đến vách tường phía sau của Trung tâm văn hóa lấy 06 viên đạn đã cất giấu nhưng chỉ còn lại 05 viên, mất 01 viên, sau đó đến Công an huyện Thạnh Phú giao nộp 05 viên đạn.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 khẩu súng ngắn Colt’s 45, số hiệu MI9IIAI.USA, NO 1139477 và 05 viên đạn bằng kim loại cỡ 11,43mm x 22,5mm, dùng cho loại súng Colt’s.

Tại Bản kết luận định số 5418/C09B ngày 27/10/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: khẩu súng gửi giám định là súng ngắn Colt’s 45 và là vũ khí quân dụng. Hiện tại súng có đầy đủ các chi tiết, không bị chỉnh sửa, thay đổi kết cấu và hoạt động bình thường. 05 viên đạn gửi giám định là đạn cỡ 11,43mm x 22,5mm, dùng cho loại súng Colt’s nêu trên và là vũ khí quân dụng; tiến hành bắn thực nghiệm 02/05 viên đạn nêu trên, kết quả đạn nổ. Hoàn lại đối tượng giám định: 01 khẩu súng Colt’s, số 1139477; 03 viên đạn cỡ 11,43mm x 22,5mm.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2021/HS-ST ngày 12 tháng 07 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre, đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng”;

Áp dụng khoản 1 Điều 304; điểm h, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 3 Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Lê Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” và Phạm Tiểu M phạm tội “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng”; phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 20/7/2021, bị cáo Nguyễn Văn S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn S giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm phát biểu:

Về tội danh cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Văn S về tội “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Hành vi của bị cáo là rất nghiêm trọng, có mức độ nguy hiểm cao cho xã hội. Bị cáo là người có nhân thân không tốt. Xét thấy mức án 09 tháng tù mà cấp sơ thẩm tuyên phạt là đã dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu:

Về tội danh mà cấp sơ thẩm áp dụng, luật sư không có ý kiến. Tuy nhiên vị luật sư cho rằng bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây ra thiệt hại. Vì thế đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo.

Lời nói sau cùng, bị cáo Nguyễn Văn S mong được chấp nhận yêu cầu kháng cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn S đúng về hình thức, nội dung và được nộp trong hạn luật định nên là kháng cáo hợp lệ.

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn S thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã nhận định. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận, Nguyễn Văn S có hành vi mua bán vũ khí quân dụng vào ngày 16/8/2020. Loại vũ khí quân dụng mà bị cáo Nguyễn Văn S mua là 01 khẩu súng ngắn Colt’s 45 được thể hiện tại Bản kết luận giám định số 5418/C09B ngày 27/10/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nguồn gốc khẩu súng nêu trên là do Võ Phúc H trộm cắp tại phòng thay đồ nam thuộc Trung tâm văn hóa Thể thao và Truyền thanh huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre do Lê Văn T tàng trữ từ năm 1990. Sau đó mua từ Võ Phúc H và Phạm Tiểu M. Do đó Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử bị cáo Nguyễn Văn S về tội “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội đúng pháp luật.

[2] Xét đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn S, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Súng quân dụng là vũ khí có tính sát thương, nguy hiểm cao độ, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất trật tự, an toàn xã hội nên Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chính sách quản lý chặt chẽ đối với vũ khí quân dụng. Mọi hành vi xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với vũ khí quân dụng đều phải bị xử lý nghiêm minh. Hành vi phạm tội của các bị cáo trong vụ án, trong đó có Nguyễn Văn S là nguy hiểm cho xã hội, không những đã trực tiếp xâm hại đến chế độ quản lý Nhà nước đối với vũ khí quân dụng, mà còn có thể là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác, ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Căn cứ vào hành vi phạm tội, nhân thân và thái độ khai báo của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 09 tháng tù, dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật và bảo đảm công bằng với các bị cáo khác trong vụ án. Do đó yêu cầu kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận.

[3] Quan điểm bào chữa của Luật sư về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được chấp nhận. Tuy nhiên, đối với đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Quan điểm đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[5] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Văn S phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn S. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2021/HS-ST ngày 12 tháng 07 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng”.

Áp dụng khoản 1 Điều 304; điểm h, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 3 Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn S 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

2. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn S phải chịu 300.000 đồng.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép vũ khí quân dụng số 68/2022/HS-PT

Số hiệu:68/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;