Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma tuý số 380/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 380/2022/HS-ST NGÀY 23/08/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 23 tháng 8 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 531/2022/HSST ngày 19/7/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4273/2022/QĐXXST-HS ngày 04/8/2022 đối với bị cáo:

Trinh Su K, sinh năm 1977 tại K, Việt Nam; nơi thường trú: Canada; chỗ ở: Căn hộ A2 Chung cư G, số 34 Bến Vân Đ, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Canada; con ông Trinh Dinh Q và bà Em M; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không. Bị bắt, tạm giam ngày 13/10/2021 (có mặt).

Người bào chữa: Luật sư Võ Tuấn A thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Trinh Su K (có mặt).

Người phiên dịch tiếng Anh: Bà Nguyễn Lê Thuý P, nhân viên Công ty TNHH Thương mại và Dịch thuật K, địa chỉ: Tầng 14, Tòa nhà H Town, 412 Nguyễn Thị Minh K, Phường B, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 14 giờ 50 phút ngày 13/10/2021, tại trước cổng trường Đại học S, Số 4 Nguyễn T, Phường C, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an Quận C tiến hành kiểm tra xe ô tô taxi V biển số 51H-719.xx do tài xế Đỗ Phú C điều khiển chở Trinh Su K ngồi ở hàng ghế sau. Trinh Su K không xuất trình được giấy tờ tùy thân nên tổ công tác mời cả hai về trụ sở Công an Phường S, Quận C để làm việc. Tại trụ sở, qua kiểm tra phát hiện trong túi quần bên trái của Trinh Su K đang mặc có 01 hộp giấy ghi chữ Symbicort, bên trong có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 18,8098 gam, loại Ketamine. Trinh Su K khai nhận là ma túy mang đi bán.

Đến 22 giờ 00 phút cùng ngày, tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trinh Su K tại căn hộ A2.20.20 chung cư The G số 34 Bến Vân Đ, Phường A, Quận A phát hiện, thu giữ: 01 gói nylon chứa 2,8189 gam ma túy ở thể rắn, loại Ketamine; 01 hộp nhựa màu trắng có nắp màu đỏ ghi chữ Eucerin, bên trong chứa 221,20 gam ma túy ở thể rắn, loại Delta-9-Tetrahydrocanabinol; 01 gói nylon chứa 100 viên nhựa bên trong mỗi viên nhựa đều chứa chất bột màu nâu là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 24,2258 gam, loại MDMA.

Toàn bộ số vật chứng là ma túy đã được giám định, kết quả thể hiện tại các bản Kết luận giám định số 5564/KLGĐ-MT ngày 19/10/2021 và số 5580/KLGĐ ngày 22/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09), Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Kết quả điều tra xác định: Trinh Su K là người Việt Nam, khoảng 12 tuổi Trinh Su K theo gia đình đến Canada sinh sống và nhập quốc tịch Canada. Khoảng tháng 11/2020, Trinh Su K từ Canada về Việt Nam tìm công việc kinh doanh và thuê căn hộ A2 chung cư G, số 346 Bến Vân Đ, Phường A, Quận A để lưu trú. Do nghiện ma túy nên Trinh Su K đã làm quen với một người không rõ lai lịch thông qua ứng dụng mạng xã hội Telegram để mua ma túy sử dụng nhiều lần. Trong thời gian dịch bệnh Covid-19, giãn cách xã hội, Trinh Su K gặp khó khăn về tài chính nên nảy sinh ý định mua ma túy bán lại kiếm lời. Ngày 12/10/2021, có một người không rõ lai lịch trong nhóm trò chuyện Telegram hỏi mua 02 hộp 10 ma túy tổng hợp (Ketamine), khoảng 20 gam. Trinh Su K đã liên hệ với người thường bán ma túy cho K đặt mua 02 gói ma túy với giá 8.000.000 đồng/01 gói. Sau đó, K sử dụng điện thoại liên hệ với người mua ma túy qua số điện thoại 09364054xx báo giá 02 gói ma túy giá 18.000.000 đồng, hưởng lợi bất chính 2.000.000 đồng và thêm 200.000 đồng là tiền công để Trinh Su K đi giao ma túy, người mua ma túy đồng ý và hẹn giao nhận ma túy tại 36 Nguyễn B, Phường D, Quận C. Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 13/10/2021, K để 02 gói ma túy vào hộp giấy có in chữ “Symbicort” rồi bỏ vào túi quần bên trái và xuống sảnh chờ của chung cư đón xe taxi V biển số 51H-719.xx do ông Đỗ Phú C điều khiển đi từ chung cư G, số 34 Bến Vân Đ, Phường A, Quận A sang Quận C để bán. Khi đến điểm hẹn, người mua ma túy yêu cầu Trinh Su K đi đến giao lộ Nguyễn B - Nguyễn T nên K yêu cầu ông C lái xe taxi chạy đến trước cổng trường Đại học S, số 4 Nguyễn T, Phường C, Quận C để chờ. Khi Trinh Su K đang ngồi trong xe taxi đợi giao ma túy thì bị Cơ quan Công an kiểm tra, bắt quả tang như trên.

Đối với số ma túy thu giữ tại căn hộ A2 chung cư G, K khai nhận 221,20 gam Delta-9-Tetrahydrocanabinol và 24,2258 gam MDMA, K mua qua mạng xã hội Telegram; 2,8189 gam Ketamine trích ra từ 02 gói ma túy mang đi bán. Tất cả số ma túy này, K cất giấu để sử dụng.

Vật chứng vụ án, thu giữ của bị cáo:

- 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 1242/21 Q5, có chữ ký ghi tên của Giám định viên Phan Tấn Q (PC09), Điều tra viên Đặng Công Th (PC04), bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định;

- 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 1243/21 (5580), có chữ ký ghi tên của Giám định viên Nguyễn Xuân S (PC09), Điều tra viên Đặng Công Th (PC04), bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định;

- 01 hộp giấy bên ngoài có ghi chữ Symbicort, để cất giấu 02 gói ma túy mang đi bán;

- 01 điện thoại di động Iphone màu xanh đã qua sử dụng, trên khay sim có số 3567331185483xx, K sử dụng liên lạc mua bán ma túy.

Tại bản Cáo trạng số 335/CTr-VKSTPHCM-P1 ngày 04/7/2022, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trinh Su K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 251 và "Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trinh Su K khai nhận: về nội dung sự việc, diễn biến các hành vi như nội dung cáo trạng đã nêu là đúng, bị cáo nhận tội và xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về gia đình.

Sau khi kiểm tra toàn bộ lời khai của bị cáo cùng với các tài liệu chứng cứ khác được đưa ra xem xét tại phiên tòa; đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trinh Su K về các tội “Mua bán trái phép chất ma túy" và "Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm h khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trinh Su K từ 02 đến 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000 đồng; từ 10 đến 11 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, không phạt bổ sung đối với bị cáo. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội từ 12 đến 14 năm tù, buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 5.000.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước. Về vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu huỷ số ma tuý còn lại sau giám định, hộp giấy; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước đối với điện thoại di động thu giữ của bị cáo.

Luật sư Võ Tuấn A trình bày bài bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát truy tố. Chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo là người nước ngoài, sau một thời gian dài sinh sống tại Canada, khi về Việt Nam bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid nên hoàn cảnh khó khăn. Bị cáo bị bệnh mất ngủ, tiểu đường, từ năm 2001, chính phủ Canada đã cho phép sử dụng cần sa trong lĩnh vực y tế để chữa bệnh. Do bị cáo không am hiểu pháp luật Việt Nam nên nghĩ việc bị cáo cất giữ ma túy sử dụng để chữa bệnh là không vi phạm pháp luật. Bị cáo nhận thức pháp luật Việt Nam có phần hạn chế. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm q, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thấp hơn mức mà Viện kiểm sát đã đề nghị.

Bị cáo Trinh Su K thống nhất với lời bào chữa của vị luật sư, không tranh luận.

Tranh luận lại quan điểm của vị Luật sư, đại diện Viện kiểm sát cho rằng: bị cáo không phải là người hạn chế năng lực nhận thức và điều khiển hành vi nên không có cơ sở để áp dụng điểm q khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự; tình tiết bị cáo nhận thức pháp luật Việt Nam có phần hạn chế đã được Viện kiểm sát đề nghị áp dụng cho bị cáo theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đại diện Viện kiểm sát bảo lưu quan điểm.

Trong phần nói lời sau cùng, bị cáo Trinh Su K thể hiện sự ăn năn hối cải, mong Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về gia đình, hòa nhập xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên, luật sư và bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của của cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trinh Su K không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Luật sư bào chữa cho bị cáo không có ý kiến về quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trinh Su K đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở xác định: Vì động cơ tư lợi và thỏa mãn cho bản thân, Trinh Su K đã mua nhiều loại ma túy tổng hợp của các đối tượng không rõ lai lịch để bán và sử dụng. Ngày 13/10/2021, Trinh Su K bị bắt quả tang đang cất giữ 18,8098 gam Ketamine để bán; khám xét chỗ ở của Trinh Su K thu giữ 2,8189 gam Ketamine; 221,20 gam Delta-9-Tetrahydrocanabinol và 24,2258 gam MDMA, bị cáo cất giấu mục đích để sử dụng.

Số ma túy bị thu giữ được giám định, kết quả thể hiện tại Kết luận giám định số 5564/KLGĐ-MT ngày 19/10/2021 và số 5580/KLGĐ ngày 22/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09), Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Với các hành vi trên, xét đã có đủ cơ sở để kết tội bị cáo Trinh Su K phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như Cáo trạng đã truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy, không những gây mất trật tự trị an, sức khỏe con người, làm lây lan tệ nạn nghiện ngập trong xã hội mà còn gây khó khăn trong việc phòng chống tội phạm về ma túy và các tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Do đó, cần thiết phải xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội về từng tội danh bị cáo phạm phải để răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Đồng thời áp dụng khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung một khoản tiền để sung vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo còn phải chịu hình phạt tổng hợp của nhiều tội theo quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo là Việt Kiều về nước, lần đầu vi phạm pháp luật Việt Nam nên cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Đối với ông Đỗ Phú C là tài xế xe taxi biển số 51H-719.xx của hãng V, ngày 13/10/2021, ông C đang đậu xe tại sảnh chờ của chung cư G thì Trinh Su K yêu cầu chở đến Quận C, do không có khách nên ông C đồng ý chở mà không cần thông qua tổng đài đặt xe. Ông C không biết và không liên quan đến việc Trinh Su K cất giấu và mua bán trái phép chất ma túy, lời khai của ông C phù hợp với lời khai của Trinh Su K. Ông C không sử dụng ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Quận C không xử lý là có căn cứ.

Đối với các đối tượng bán ma túy cho Trinh Su K và đối tượng mua ma túy của K, do K khai không rõ về nhân thân, lai lịch và địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở điều tra, xác minh làm rõ để xử lý là có căn cứ.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Đối với các gói ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành và hộp giấy là vật dụng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với điện thoại di động thu giữ của bị cáo. Bị cáo đã sử dụng điện thoại để liên lạc cá nhân và giao dịch, mua bán ma túy. Đây là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm h khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt Trinh Su K 02 (hai) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng; 10 (mười) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/10/2021. Buộc bị cáo phải nộp số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong ghi chữ “1242/21 Q5”, có chữ ký ghi tên của Giám định viên Phan Tấn Q (PC09), Điều tra viên Đặng Công Th (PC04), bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định; 01 (một) gói niêm phong ghi chữ “1243/21 (5580)”, có chữ ký ghi tên của Giám định viên Nguyễn Xuân S (PC09), Điều tra viên Đặng Công Th (PC04), bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định; 01 (một) hộp giấy bên ngoài có ghi chữ Symbicort Turbuhaler.

- Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động Iphone màu xanh đã qua sử dụng, trên khay sim có số 3567331185483xx (không kiểm tra tình trạng máy móc do không có nguồn điện).

(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số NK2022/468 ngày 01/7/2022 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma tuý số 380/2022/HS-ST

Số hiệu:380/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: đang cập nhật
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;