TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH
Bản án 190/2024/HS-ST ngày 27/09/2024 về tội mua bán trái phép chất ma tuý và tàng trữ trái phép chất ma túy
Ngày 27 tháng 9 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh và điểm cầu thành phần tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, Tòa án nhân dân thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 193/2024/TLST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 190/2024/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2024 đối với các bị cáo:
1. Cầm Văn Th, sinh năm 2001;
Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; HKTT: bản C, xã M, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Con ông Cầm Văn N và bà Cầm Thị O; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con út; Vợ, con: Chưa có.
Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/6/2024 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại điểm cầu thành phần Trại tạm giam - Công an tỉnh Bắc Ninh.
2. Vàng Văn T, sinh năm 1986 Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; HKTT: bản P, xã P, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 04/12; Con ông Vàng Văn I và bà Lò Thị S; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai; Vợ: Chu Thị H, sinh năm 1987; Bị cáo có 01 con, sinh năm 2006.
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Tại Bản án số 60/2010/HSST ngày 08/8/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điều 194, Điều 198 BLHS 1999. Chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 10/10/2012.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/6/2024 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại điểm cầu thành phần Trại tạm giam - Công an tỉnh Bắc Ninh.
* Người bào chữa cho bị cáo Vàng Văn T: Bà Nguyễn Thị C – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.
* Người tham gia tố tụng khác:
1. Ông Nguyễn Kim Sơn, sinh năm 1993 - Cán bộ phụ trách tin học thuộc TAND thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.
2. Cán bộ phụ trách tin học thuộc Trại tạm giam công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chiều ngày 01/6/2024, Cầm Văn Th đi bộ một mình tại khu vực vòng xuyến thuộc khu Lợ, phường Việt Hùng, thị xã Quế Võ thì mua được của một người đàn ông không quen biết 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa ma tuý Heroine với giá 150.000 đồng. Th cất gói ma túy vừa mua vào túi quần phía trước bên trái đang mặc trên người để khi có người hỏi mua thì bán kiếm lời. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, Th đang đi bộ ở khu vực vòng xuyến thì gặp Vàng Văn T và Lò Văn Ngh, sinh năm 1997, HKTT: bản N, xã N, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu đang đi cùng nhau. Khi nhìn thấy Th, T một mình đi bộ tiến lại gần chỗ Th và hỏi mua 200.000 đồng tiền ma tuý Heroin đồng thời đưa cho tiền cho Th. Th cầm tiền cất vào túi quần phía trước bên phải đang mặc trên người rồi lấy từ túi quần phía trước bên trái 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng đưa cho T. Biết đó là ma tuý cần mua, T cầm lấy rồi đút vào túi quần phía trước bên phải đang mặc trên người. Sau đó, Th và T định ra về thì đúng lúc này bị tổ công tác Công an phường Việt Hùng, thị xã Quế Võ kiểm tra, lập biên bản quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng như đã nêu ở trên.
* Vật chứng còn lại: Mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư có dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh; Số tiền 200.000 đồng.
Tại bản Kết luận giám định số 1344/KLGĐMT-PC09 ngày 03/6/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:
“+ Chất bột màu trắng bên trong 01 (một) gói giấy bạc màu trắng gửi giám định có khối lượng là 0,1174 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine (Heroin).
Heroine (Heroine), có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ- CP, ngày 25/8/2022 của Chính Phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.” Quá trình điều tra, các bị cáo Cầm Văn Th và Vàng Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.
Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 148/CT-VKSQV ngày 12/9/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Quế Võ truy tố Cầm Văn Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1, Điều 251 Bộ luật Hình sự và Vàng Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, Khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Cầm Văn Th và bị cáo Vàng Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Quế Võ phân tích lời khai nhận tội của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với vật chứng thu giữ được và toàn bộ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố Cầm Văn Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Vàng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: Cầm Văn Th từ 24 tháng đến 28 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/6/2024.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: Vàng Văn T từ 13 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/6/2024.
Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Về xử lý vật chứng của vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ số mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh. Tịch thu sung nộp ngân sách nhà nước số tiền 200.000 đồng.
Về án phí: Do bị cáo T là người dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Th phải chịu án phí theo quy định của pháp.
* Phát biểu của Bà Nguyễn Thị C– Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Ninh là người bào chữa cho bị cáo Vàng Văn T:
Nhất trí với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Quế Võ đã truy tố đối với bị cáo Vàng Văn T là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo T sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn, là hộ nghèo, là người dân tộc thiểu số tại vùng có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn, trình độ học vấn thấp nên hiểu biết về pháp luật còn hạn chế. Tại phiên tòa cũng như trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải nên đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất. Do bị cáo là người sống ở vùng có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình thuộc hộ nghèo nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Bị cáo Th và bị cáo T nhận tội, nhất trí với ý kiến của người bào chữa, không tham gia tranh luận đối với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thị xã Quế Võ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Quế Võ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Cầm Văn Th và bị cáo Vàng Văn T tại cơ quan điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với thời gian, địa điểm, tang vật thu được tại hiện trường, lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án xác định được:
Hồi 18 giờ 05 phút ngày 01/6/2024 tại khu Lợ, phường Việt Hùng, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, Công an phường Việt Hùng, thị xã Quế Võ bắt quả tang Cầm Văn Th, sinh năm 2001; HKTT: bản C, xã M, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên có hành vi bán trái phép 0,1174 gam ma tuý Heroin cho Vàng Văn T, sinh năm 1986; HKTT: bản P, xã P, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu với giá 200.000 đồng. Mục đích T mua ma túy là để sử dụng cho bản thân. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của Cầm Văn Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 và Vàng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Quế Võ đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội. Tệ nạn ma tuý làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước; việc đấu tranh với các tội phạm về ma tuý hiện nay là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để bài trừ tệ nạn này. Bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật, các bị cáo đã có hành vi mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của các bị cáo đã tiếp tay làm gia tăng tệ nạn ma tuý trên địa bàn thị xã Quế Võ. Bị cáo Th vì muốn kiếm lời đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo T là đối tượng nghiện, không chịu lao động mà tiếp tục sử dụng ma tuý mặc dù trước đó đã bị kết án về hành vi mua bán và chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý. Chính vì vậy phải đưa ra xét xử đối với các bị cáo kịp thời và có hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, bị cáo T là người có nhân thân xấu, năm 2010 đã bị Tòa án xử phạt tù về tội ‘‘mua bán trái phép chất ma túy’’ và ‘‘chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy’’.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Cầm Văn Th và bị cáo Vàng Văn T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng cần xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của từng bị cáo để quyết định hình phạt phù hợp đối với bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, không có nghề nghiệp ổn định khó thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng không cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Đối với người đàn ông bán ma túy cho Th ngày 01/6/2024. Quá trình điều tra xác định Th không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Quế Võ tiếp tục xác minh khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp.
Đối với Lò Văn Ngh là người đi cùng T ngày 01/6/2024. Quá trình điều tra xác định Nghĩa không biết việc T đi mua ma tuý nên Cơ quan điều tra không xử lý mà chỉ nhắc nhở đối với Nghĩa là phù hợp.
Về xử lý vật chứng của vụ án: Mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh là vật cấm nên cần tịch thu tiêu huỷ. Đối với số tiền 200.000 đồng là tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu nộp Ngân sách nhà nước.
Về án phí: Do bị cáo T là người dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định tại điểm đ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Cầm Văn Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”; bị cáo Vàng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: xử phạt Cầm Văn Th 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/6/2024.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: xử phạt Vàng Văn T 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/6/2024.
Miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
Quyết định tạm giam bị cáo Th và bị cáo T 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.
2. Về xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu huỷ số mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh. (Theo biên bản giao vật chứng số 158 ngày 11/9/2024 giữa Công an thị xã Quế Võ với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Quế Võ).
Tịch thu nộp Ngân sách nhà nước số tiền 200.000 đồng (Theo tiên lai thu tiền số 0001084 ngày 11/9/2024 giữa Công an thị xã Quế Võ với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Quế Võ).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:
Bị cáo Cầm Văn Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vàng Văn T.
Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý và tàng trữ trái phép chất ma túy số 190/2024/HS-ST
| Số hiệu: | 190/2024/HS-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Ngày ban hành: | 27/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về