Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy số 103/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 103/2022/HS-ST NGÀY 27/06/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 104/2022/TLST-HS ngày 08/6/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2022/QĐXXST-HS ngày 14/6/2022, đối với bị cáo:

Lê Xuân M, sinh năm 1987 tại T; nơi đăng ký NKTT: Thôn 3, xã X, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Xuân L và bà Nguyễn Thị Y; Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 014 ngày 27/12/2021 lập tại Công an quận Nam Từ Liêm; tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2021; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Lê Xuân M là đối tượng nghiện ma túy, do vừa nghỉ việc không có thu nhập ổn định nên M nảy sinh ý định mua ma túy về bán cho các đối tượng nghiện để kiếm lợi nhuận. Khoảng 16h00’ ngày 16/12/2021, M điều khiển xe máy Honda Wave BKS 29D1 – 608.32 đi từ phòng trọ tại ngách 203/42 đường T, phường Đ, Nam Từ Liêm, Hà Nội đi sang khu vực nghĩa trang ở phường Đ, Từ Sơn, Bắc Ninh để tìm mua ma túy. Tại đây, M gặp một người đàn ông không quen biết khoảng 40 tuổi (dáng người cao, đeo khẩu trang, mặc áo khoác có chữ Grap, đi xe máy Vision màu đỏ không rõ BKS) hỏi mua được của người này 4.000.000 đồng tiền ma túy Heroin và hồng phiến được đựng trong 01 túi nilông (trong đó có 16 viên hồng phiến và 01 túi nilông trong đó có chứa ma túy Heroin). Sau khi mua được ma tuý, M mang về phòng trọ lấy một ít ra sử dụng (bằng hình thức hít), sau đó M dùng dao lam chia nhỏ số ma túy heroin vừa mua được gói vào các mảnh giấy đã cắt trước đó thành 76 gói nhỏ để đi bán cho các con nghiện, số Heroine vụn còn lại trong túi nilong M cất vào đầu giường để sử dụng dần, túi nilong chứa 16 viên hồng phiến M cất giấu vào đèn ngủ treo trên tường với mục đích để về quê sử dụng vào dịp Tết. Sau đó M cho 76 gói ma túy vào túi nilông màu trắng rồi cất giấu vào trong quần lót M đang mặc và điều khiển xe máy Honda Wave BKS 29D1 – 608.32 mang số ma túy trên mục đích đi bán mang cho các đối tượng nghiện ma túy với giá 100.000đ/gói. Khoảng 19h00’ cùng ngày, M đi xe máy ra trước cửa nhà số 6 ngõ 203 đường T, phường Đ, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội thì bị lực lượng Công an kiểm tra và bắt giữ cùng vật chứng. Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa 76 gói giấy nhỏ màu trắng, kích thước khoảng (0.5x1.5) cm, chứa tinh bột màu trắng nghi là ma túy Heroin; 01 điện thoại di động Nokia màu trắng, gắn sim 0981 891 364; 01 xe mô tô Honda Wave màu đỏ, BKS: 29D1 – 608.32; Số tiền 660.000đ gồm các mệnh giá: 02 tờ 50.000đ, 03 tờ 20.000đ, 48 tờ 10.000đ, 04 tờ 5.000đ. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Xuân M, tại địa chỉ: ngõ 203/42 đường T, tổ 1, Đ, Nam Từ Liêm, Hà Nội phát hiện: Tại dưới lớp vỏ chăn ở đầu giường ngủ của M có 01 túi ni lông màu trắng có khóa zip kích thước khoảng (3x6) cm, bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy;

Trong chiếc đèn ngủ cắm tại ổ điện trên tường nhà ở đầu giường ngủ của M có 01 túi ni lông màu trắng kích thước (3x6) cm bên trong chứa 16 viên nén màu đỏ hình tròn nghi là ma túy; Trong ba lô vải màu xanh của M có tổng số tiền 190 triệu đồng bao gồm 160 tờ mệnh giá 500.000đ và 550 tờ mệnh giá 200.000đ; Một cân điện tử màu trắng không rõ nhãn mác trong ngăn kéo tủ gỗ kê cuối giường ngủ sát bờ tường của M.

Tại Bản kết luận giám định số 8970/KLGĐ – PC09 ngày 24/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an thành phố Hà Nội, kết luận: “- Chất bột màu trắng bên trong 76 gói giấy (thu giữ khi bắt quả tang) đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng: 4,828gam; Chất bột màu trắng bên trong 01 túi nilong (Thu giữ khi khám xét) là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,622 gam; 16 viên nén màu đỏ bên trong 01 túi nilong (Thu giữ khi khám xét) đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 1,618 gam; 01 cân điện tử màu trắng có dính ma túy loại Heroine”.

Kiểm tra điện thoại thu giữ của bị cáo M phát hiện tin nhắn từ số điện thoại 0334350312 và số 0812403289 đến số 0981891364 của M có nội dung liên quan đến việc mua bán ma tuý. Quá trình điều tra xác định:

- Số điện thoại 0334350312: người đứng tên đăng ký thuê bao là chị Bùi Thị T (sinh năm: 1993; HKTT: T, Lạc Sơn, Hòa Bình). Tại cơ quan điều tra, chị T khai nhận số điện thoại trên là số điện thoại chị đăng ký chính chủ và sử dụng đến giữa năm 2021 thì bị mất điện thoại và sim, sau khi bị mất điện thoại chị T không đi đăng ký làm lại sim. Từ đó đến nay chị không sử dụng và cũng không biết ai đang sử dụng số điện thoại trên.

- Số điện thoại 0812403289: người đứng tên đăng ký thuê bao là chị Lê Thị Y (sinh năm: 1996, NKTT: xã S, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La). Tại cơ quan điều tra chị Y khai chị không đăng ký, không sử dụng và chị cũng không biết ai đang sử dụng số điện thoại trên.

Do không có căn cứ để xác định người đang sử dụng các số điện thoại như đã nêu trên, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xác minh làm rõ.

Đi với người đàn ông bán ma túy cho M tại khu vực nghĩa trang ở phường Đ, Từ Sơn, Bắc Ninh (như M khai). Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra làm rõ và xử lý.

Đi với chiếc xe máy Honda wave màu đỏ đen, BKS: 29D1 – 608.32, thu giữ của M khi bị bắt quả tang. Quá trình điều tra xác định: người đứng tên đăng ký chiếc xe máy trên là ông Nguyễn Duy D (sinh năm 1950, NKTT: số 300B M, Hai Bà Trưng, Hà Nội; Chỗ ở hiện nay: số 150 M, Hai Bà Trưng, Hà Nội), tại Cơ quan điều tra ông D khai ông mua và đăng ký chiếc xe trên năm 2013 sau đó bán lại cho thợ sửa xe máy (không nhớ thời gian cụ thể và không lưu giữ giấy tờ bán xe). Lê Xuân M khai mua chiếc xe trên tại cửa hàng xe máy H ngày 11/11/2021 (có giấy mua bán). Tại Kết luận giám định số 241 ngày 07/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội xác định số khung, số máy chiếc xe trên là nguyên thủy. Tra cứu phương tiện trên không nằm trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Lê Văn M khai nhận dùng chiếc xe máy trên làm phương tiện đi mua ma túy ngày 16/11/2022 và đang dùng làm phương tiện đi bán ma túy cho các con nghiện thì bị bắt quả tang. Do vậy, chuyển chiếc xe máy trên đến Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm để giải quyết theo quy định.

Đi với số tiền 190.000.000đ thu giữ khi khám phòng trọ của Lê Xuân M, M khai nhận số tiền trên do M đi làm thợ thạch cao cho các công trình xây dựng được trả lương, do M không có tài khoản ngân hàng nên tiền tích cóp M để trong balo mang theo người, số tiền trên không liên quan đến việc mua bán, tàng trữ ma túy của M. Cơ quan điều tra đã tiến hành ghi lời khai của anh Lê Thiên K (sinh năm: 1988, NKTT: xã X, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa; Chỗ ở hiện nay: số 14 ngõ 195 đường T, phường T, Nam Từ Liêm, Hà Nội) là nhà thầu phụ chuyên nhận công trình xây dựng xác định: Do quen biết với M và biết M làm thợ thạch cao từ năm 2019 trên địa bàn Hà Nội nên từ tháng 03/2021 anh K có thuê M làm thợ thạch cao tại Công trình xây dựng V và có trả lương 15.000.000đồng/tháng (đã bao ăn ở) đến tháng 10/2021 thì M nghỉ việc. Do không xác định được nguồn tiền có phải từ bán ma tuý hay không.

Nên chuyển cùng vật chứng để Toà án giải quyết theo quy định.

Bản Cáo trạng số 111/CT-VKSNTL ngày 30/5/2022 của Viện kiểm sát nhân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo Lê Xuân M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 và điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân của bị cáo đã kết luận giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 251 và điểm i khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38. Điều 55 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Xuân M mức án từ 5 năm 6 tháng đến 6 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và mức án từ 36 đến 42 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt là từ 8 năm 6 tháng đến 9 năm 6 tháng tù. Vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy, tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1203 màu đen, 01 xe máy Honda wave màu đỏ BKS:

29D1-608.32 và 660.000 đồng đã thu giữ. Trả lại cho bị cáo 190 triệu đồng đã thu giữ tại nơi ở của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm pháp quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định: Hồi 19 giờ 00 phút ngày 16/12/2021, tại khu vực trước cửa nhà số 6 ngõ 203 đường T (thuộc phường Đ, Nam Từ Liêm, Hà Nội), Lê Xuân M đã có hành vi cất giấu 4,828 gam Heroin với mục đích để bán thì bị Tổ công tác Công an phường Đ phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng. Ngoài ra, Lê Xuân M còn cất giấu tại nơi ở 0,622 gam ma túy loại Heroine và 1,618 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 và điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, phù hợp pháp luật.

[2] Đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền kiểm soát các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Về nhân thân: bị cáo không có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, có thái độ ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được thể hiện ở mục đích phạm tội, khối lượng, loại ma túy mà bị cáo tàng trữ, căn cứ vào nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được nêu ở trên có đủ căn cứ để áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung với mức án thấp hơn đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và tình hình tài sản của bị cáo thì có đủ cơ sở để áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Xử lý vật chứng, các biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy số ma túy, và 03 phong bì niêm phong có chữ ký của Lê Xuân M, cán bộ CAP Đ; tịch thu sung quỹ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1203 màu đen; 01 xe máy Honda wave màu đỏ BKS: 29D1-608.32 đã thu giữ thu giữ theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự vì liên quan đến hành vi phạm tội.

Tm giữ số tiền 190.660.000 đã thu giữ của bị cáo để đảm bảo việc thi hành án, số tiền còn lại sau khi bị cáo thi hành xong các nghĩa vụ về tài sản của bản án được trả lại cho bị cáo.

[5] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào: Khoản 1 và Khoản 5 Điều 251, Điểm i Khoản 1 và Khoản 5 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 55, Điểm a Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các Điều 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Tuyên bố bị cáo Lê Xuân M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Xử phạt bị cáo Lê Xuân M 6 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 2 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Lê Xuân M phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 8 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/12/2021.

Hình phạt bổ sung: phạt tiền bị cáo Lê Xuân M 100.000.000 đồng.

- Xử lý vật chứng, các biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy 03 phong bì niêm phong có chữ ký của Lê Xuân M, cán bộ CAP Đ. Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1203 màu đen có gắn 01 sim, 01 xe máy Honda wave màu đỏ BKS: 29D1-608.32.

Tm giữ số tiền 190.660.000 đồng đã thu giữ của bị cáo Lê Xuân M để đảm bảo việc thi hành án. Số tiền còn lại sau khi bị cáo thi hành xong các nghĩa vụ về tài sản của bản án, được trả lại cho bị cáo Lê Xuân M.

Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm theo Biên bản giao, nhận vật chứng số 158 ngày 03/06/2022 và ủy nhiệm chi ngày 08/06/2022.

- Về án phí: Bị cáo Lê Xuân M phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

94
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy số 103/2022/HS-ST

Số hiệu:103/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;