Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 967/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 967/2024/HS-PT NGÀY 30/09/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 714/2023/TLPT-HS ngày 21 tháng 9 năm 2023 đối với các bị cáo Tô Thanh T, Phùng Nhật D do có kháng cáo của các bị cáo Tô Thanh T, Phùng Nhật D đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 370/2023/HS-ST ngày 08/8/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Tô Thanh T; giới tính: nam; sinh ngày 28 tháng 4 năm 1997, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 4 P, Phường C, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: căn hộ A chung cư K số C T, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: không; con ông: Tô Văn M (sinh năm 1970) và bà Phạm Thị M1 (sinh năm 1975); vợ: Nguyễn Thị Ngọc L (sinh năm 2001) và có 01 người con (sinh năm 2022); tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/5/2022 - có mặt.

2. Phùng Nhật D; giới tính: nam; sinh ngày 30 tháng 6 năm 1993, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: 285/85/29 Cách mạng Tháng 8, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: không; con ông: Phùng Khắc M2 (sinh năm 1957) và bà Võ Thị Ngọc D1 (sinh năm 1967); tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/5/2022 - có mặt.

Người bào chữa cho các bị cáo:

- Luật sư Nguyễn Hoài N, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H bào chữa cho bị cáo Tô Thanh T - có mặt.

- Luật sư Đào Quang D2, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H bào chữa cho bị cáo Phùng Nhật D - có mặt.

- Luật sư Lê Thị Ánh T1, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H bào chữa chỉ định cho các bị cáo Tô Thanh T và Phùng Nhật D - có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 14 giờ 30 phút, ngày 13 tháng 5 năm 2022, tại trước khu vực sân của block A chung cư Kingdom 101, số C T, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, Tổ công tác Đội 7 Phòng PC04 - Công an Thành phố H phối hợp với Phòng PC04 Công an Thành phố H, Công an P1, Quận A cùng với các đơn vị nghiệp vụ phòng chống ma túy của T4 phát hiện bắt quả tang Tô Thanh T và Phùng Nhật D đang nhận 01 thùng hàng do nhân viên Công ty dịch vụ chuyển phát nhanh EMS giao. Kiểm tra bên trong thùng hàng có:

- 06 hộp giấy bên ngoài in chữ “eco”, trong đó có: 05 hộp giấy đựng chất bột màu trắng (không tìm thấy ma túy), bên trong mỗi hộp có chứa 01 gói nylon quấn băng keo màu vàng, bên trong là ma túy rắn, có khối lượng 3.417,18 gam loại MDMA; 04 gói nylon bên trong chứa nhiều viên nén màu xanh, là ma túy có khối lượng 2.731,07 gam loại MDMA; 01 hộp giấy đựng chất bột màu trắng (không tìm thấy ma túy);

- 09 hộp giấy màu xanh đậm bên ngoài in chữ “Denkmit”, trong đó có: 05 hộp giấy đựng chất bột màu trắng (không tìm thấy ma túy), bên trong mỗi hộp có chứa 01 gói nylon quấn băng keo màu vàng có đặc điểm và khối lượng: 01 gói nylon quấn băng keo màu vàng bên trong là ma túy, có khối lượng 430,07 gam loại Ketamine; 01 gói nylon quấn băng keo màu vàng bên trong là ma túy, có khối lượng 410,70 gam loại Ketamine; 02 gói nylon quấn băng keo màu vàng bên trong là ma túy, có khối lượng 971,55 gam loại Ketamine và 01 gói nylon quấn băng keo màu vàng bên trong là ma túy, có khối lượng 485,41 gam loại Ketamine.

- 07 hộp giấy màu xanh nhạt in chữ “Denkmit”, bên trong đựng chất bột màu trắng (không tìm thấy ma túy), trong mỗi hộp có chứa 01 gói nylon quấn băng keo màu vàng bên trong là ma túy, có khối lượng 4.682,66 gam loại MDMA.

Ngoài ra, tại thời điểm kiểm tra Phùng Nhật D có tự nguyện giao nộp 01 gói nylon chứa chất tinh thể màu trắng, là ma túy có khối lượng 1,5994 gam, loại Ketamine, số ma túy này D cất giấu trong túi quần sau phía bên phải D đang mặc.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Tô Thanh T tại căn hộ A chung cư K số C T, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện, thu giữ:

- Bên trong phòng ngủ đầu tiên nhìn từ cửa chính vào: 05 hộp nhựa màu trắng có nắp đậy, bên trong mỗi hộp chứa 01 gói nylon chứa chất tinh thể không màu là ma túy có khối lượng 497,14 gam loại Ketamine; 01 hủ tròn nắp bạc chứa chất bột là ma túy có khối lượng 175,05 gam loại MDMA và Ketamine; 01 gói nylon dạng túi cà phê có ghi chữ “COFEE BREAK”, bên trong chứa chất tinh thể là ma túy có khối lượng 991,12 gam loại Ketamine; 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng là ma túy có khối lượng 394,04 gam loại MDMA; 01 gói nylon chứa chất bột màu xám là ma túy có khối lượng 632,57 gam loại MDMA và Ketamine; 05 gói nylon chứa chất tinh thể không màu là ma túy có khối lượng 488,30 gam loại Ketamine; 02 gói nylon màu cam có ghi chữ “ORANGE JUICE”, bên trong chứa chất bột là ma túy có tổng khối lượng 13,7682 gam loại MDMA và Ketamine; 14 gói nylon màu xanh có ghi chữ “CRISPY FRUIT”, bên trong chứa chất bột là ma túy có khối lượng 99,05 gam loại Methamphetamine, MDMA và Nimetazepam; 01 hộp giấy màu đen bên trong có 01 gói nylon chứa 05 viên thuốc con nhộng chứa chất bột là ma túy có khối lượng 0,9559 gam loại MDMA; 01 gói nylon chứa chất tinh thể không màu là ma túy có khối lượng 1,9764 gam loại Ketamine.

- Trong tủ quần áo phòng ngủ thứ hai nhìn từ cửa chính vào, nhiều gói nylon màu đỏ dạng viên thuốc bên trong chứa nhiều viên nén màu cam, có khối lượng 158,85 gam (không đủ cơ sở kết luận là ma túy); 01 hộp giấy bên trong đựng 01 gói nylon chứa nhiều viên nén màu cam là ma túy có khối lượng 1,7528 gam loại Ketamine;

- Tại kệ để đồ 01 hộp giấy màu đen, bên trong có 02 gói nylon màu xanh có ghi chữ “CRISPY FRUIT”, bên trong chứa chất tinh thể màu tím là ma túy có khối lượng 6,5861 gam loại MDMA và Ketamine; 01 gói nylon chứa nhiều mảnh vỡ dạng viên nén màu xám là ma túy có khối lượng 3,3730 gam loại MDMA; 01 gói nylon chứa chất bột màu xám là ma túy có khối lượng 6,6674 gam loại MDMA; 01 gói nylon màu tím chứa chất bột màu hồng là ma túy có khối lượng 1,2696 gam loại MDMA và Ketamine.

Toàn bộ số ma túy thu giữ trong vụ án nêu trên đã được giám định, kết quả thể hiện tại Kết luận giám định số 2800/KL-KTHS ngày 20/5/2022 của Phòng K1, Công an Thành phố H.

Quá trình điều tra Tô Thanh T khai nhận có nghiện ma túy và sử dụng Ketamine, thuốc lắc từ năm 2019. Thông qua sự giới thiệu của bạn bé T quen biết một người đàn ông tên K (không rõ lai lịch, sử dụng số điện thoại 09067438xx) là người bán ma túy, K đề nghị T thuê căn hộ A14.12 chung cư Kingdom 101 số C T, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (với số tiền 17.000.000 đồng/01 tháng) để ở và giúp K cất giấu ma túy, khi nào có khách mua ma túy thì K lấy đem đi bán, mỗi tháng K hỗ trợ cho T 7.000.000 đồng để trả tiền thuê căn hộ, ngoài ra K còn bao cho T đi chơi, ăn, uống và sử dụng ma túy nên T đồng ý. T làm thẻ đi thang máy và cung cấp mật khẩu cửa căn hộ cho K và D để cả 02 đến căn hộ này bất cứ lúc nào nhằm mục đích để lấy ma túy đi bán. Theo đó, nhiệm vụ của T là khi có nhân viên giao hàng “GRAB” hoặc công ty chuyển phát nhanh giao các thùng hàng có chứa ma túy đến chung cư K thì T xuống nhận, mang lên căn hộ cất giấu. Sau đó K đến lấy ma túy, phân chia và đem đi bán cho người mua.

Từ khoảng tháng 01/2022 đến tháng 4 năm 2022, T đã 03 lần giúp K nhận các thùng hàng có chứa ma túy do nhân viên giao hàng “GRAB” giao, T nhận các kiện hàng rồi mang lên căn hộ cất giấu. Sau đó, K đến lấy kiện hàng này đem đi giao cho ai thì T không biết.

Vào trưa ngày 13/5/2022, có nhân viên của công ty chuyển phát nhanh liên lạc qua số điện thoại 0816234xxx của T thông báo cho T biết chuẩn bị giấy tờ để nhận kiện hàng, T biết là kiện hàng chứa ma túy của K yêu cầu T nhận và cất giấu cho K. Đến khoảng 14 giờ 00’ cùng ngày, T nhận được điện thoại của nhân viên giao hàng yêu cầu T xuống sân chung cư để nhận hàng, lúc này D đang ở nhà T nên T có nói cho D biết là ma túy đã giao đến nên rủ D cùng T đi xuống sân chung cư nhận. Khi T và D nhận và khiêng thùng hàng có chứa ma túy lên chung cư thì bị Cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên. Về nguồn gốc số ma túy thu giữ tại chỗ ở của T, T khai toàn bộ số ma túy này là của K mang đến nhờ T cất giữ để K phân chia bán lại cho người khác kiếm lời. Trong đó có số ma túy do D mang đến vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 12/5/2022 gồm 02 gói dạng túi cà phê có ghi chữ “COFEE BREAK”, bên trong chứa tinh thể là ma túy. Một lúc sau, K đến phân chia 01 gói “COFEE BREAK” thành 10 gói nylon nhỏ (05 gói để ở ngoài và 05 gói để trong hũ nhựa màu trắng có nắp đậy), còn lại 01 gói “COFEE BREAK” chưa phân đều bị thu giữ khi khám xét khẩn cấp.

Phùng Nhật D khai nhận, thông qua bạn bè D quen biết với một người đàn ông tên K (không rõ lai lịch) là người có nguồn ma túy để bán nên D đã nhiều lần mua ma túy của K để sử dụng. Việc giao dịch mua bán ma túy này được giữa K và Duy thực hiện tại căn hộ A, chung cư K (do T thuê). Cách ngày bị bắt khoảng 10 ngày, D có đặt mua của K 05 gam ma túy Ketamine với giá 5.000.000 đồng, sau đó D bán lại cho một người phụ nữ tên T2 (không rõ lai lịch, sống tại khu vực Quận D) với giá 6.000.000 đồng, hưởng lợi 1.000.000 đồng. Tối ngày 12/5/2022, D đến căn hộ của T chơi và ngủ lại. Đến trưa ngày 13/5/2022, có nhân viên giao hàng gọi điện thoại cho T thông báo sắp giao hàng đến chung cư và yêu cầu T chuẩn bị giấy tờ để nhận hàng. T gọi điện thoại thông báo cho K biết hàng sắp giao đến, D biết hàng là ma túy của K mua từ nước ngoài gửi về. Đến khoảng 14 giờ 30’ cùng ngày, nhân viên giao hàng gọi điện thoại yêu cầu T xuống chung cư nhận hàng, T nói cho D biết hàng (ma túy) đã tới nên D đi theo T xuống nhận và phụ giúp T đem lên nhà. Khi T và D vừa nhận được thùng hàng có chứa ma túy từ nhân viên chuyển phát nhanh thì bị Cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang như trên. D không thừa nhận mang 02 gói “COFEE BREAK” đến căn hộ của T thuê để cho K phân chia như lời khai của T. Về nguồn gốc của gói ma túy Ketamine thu giữ trong túi quần của D đang mặc là số ma túy D mua của một người phụ nữ (không rõ lai lịch) tại khu vực đường B, Quận A, với giá 2.000.000 đồng để sử dụng và nếu có ai hỏi mua thì D sẽ đem bán kiếm tiền lời. Sau đó Phùng Nhật D thay đổi lời khai không thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trước đó. D cho rằng chỉ phụ giúp Tô Thanh T nhận hàng từ nhân viên giao hàng để mang lên căn hộ và không biết trong thùng hàng này có chứa ma túy. Đối với số ma túy thu giữ trong túi quần, D khai mua của một người phụ nữ (không rõ lai lịch) tại khu vực đường B, Quận A với số tiền 2.000.000 đồng để sử dụng cho bản thân. Phùng Nhật D, không cung cấp mật mã mở máy điện thoại do D sử dụng bị thu giữ (là 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax, 01 thẻ sim). Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Thành phố H đã Trưng cầu Phòng K1 Công an Thành phố H giám định, khôi phục và trích xuất dữ liệu có trong điện thoại này; Kết quả không mở được máy, không khôi phục được dữ liệu điện thoại.

Đối với đối tượng tên K (là người yêu cầu T nhận ma túy cất giữ và là người bán ma túy cho D) do T và D khai không rõ lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H không có cơ sở để điều tra, xác minh làm rõ để xử lý.

Đối với thông tin người nhận thùng hàng Nguyễn Thị G ngụ C T, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; số điện thoại 0816234xxx. Qua xác minh Công an P1, Quận A cung cấp tại địa chỉ C T, Phường A, Quận A không có ai tên Nguyễn Thị G đăng ký thường trú, tạm, trú hay thực tế cư trú. Riêng số điện thoại 0816234xxx là số điện thoại của T sử dụng và cung cấp cho K; K cung cấp cho bên giao hàng để nhân viên giao hàng liên lạc giao thùng hàng cho T.

Vật chứng vụ án:

- 08 thùng, gói niêm phong bên ngoài có ghi số vụ: 2800 (548/22) gói 1, gói 2, gói 3, gói 4, gói 5, gói 6, gói 7, gói 8 bên trong là ma túy, chất không xác định còn lại sau giám định, bên ngoài các thùng, gói niêm phong có chữ ký của giám định viên và điều tra viên.

- Thu giữ của Tô Thanh T: 01 cân điện tử có ghi chữ Pocket Scale; 01 cân điện tử có ghi chữ Marllono; 01 túi nylon màu đen chứa nhiều gói nylon rỗng; 01 máy ép bao nylon; 01 gói nylon chứa nhiều vỏ viên thuốc hình con nhộng; 05 hộp nhựa rỗng màu trắng có nắp đậy; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 Promax, màu xám đen; 01 tờ giấy có ghi số EZ074334173VN; 01 thùng giấy quấn băng keo màu đen, có dán giấy ghi số EZ074334173VN. - Thu giữ của Phùng Nhật D: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax, 01 thẻ sim.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 370/2023/HS-ST ngày 08/8/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

- Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Bị cáo Tô Thanh T Từ hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo Tô Thanh T số tiền 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng, sung ngân sách nhà nước.

- Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Phùng Nhật D Từ hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Phạt bổ sung Phùng Nhật D số tiền 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng, sung ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 14/8/2023, các bị cáo Tô Thanh T, bị cáo Phùng Nhật D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

1. Phần xét hỏi:

1.1. Bị cáo Tô Thanh T giữ nguyên kháng cáo và trình bày:

- Về hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo xác định bị cáo có nhận ma túy từ đối tượng tên K 03 lần, tuy nhiên chỉ có lần thứ 03 bị cáo biết được đó là ma túy. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì mức án Tòa án cấp sơ thẩm tuyên đối với bị cáo là quá nghiêm khắc. Bị cáo cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ là bị cáo có tham gia dân quân tự vệ, ông bị cáo là người có công với cách mạng.

- Về hành vi phạm tội của bị cáo D: Bị cáo xác định bị cáo không bàn bạc với bị cáo D về việc mua bán ma túy chung với bị cáo K; cũng không bàn bạc với bị cáo D và bị cáo K về việc cùng phụ giúp K mua bán ma túy. Trong quá trình tố tụng ở cấp sơ thẩm bị cáo khai là bị cáo D có tham gia phụ giúp K mua bán ma túy, nguyên nhân vì D là bạn của K nên bị cáo nghĩ D phải có tham gia trong việc phụ giúp K mua bán ma túy. Đối với gói dạng túi cà phê có ghi chữ “COFEE BREAK”, bên trong chứa tinh thể là ma túy thu giữ tại nhà của bị cáo, trong quá trình điều tra và tại cấp sơ thẩm bị cáo khai do bị cáo D mang đến là vì khi bị cáo thấy 02 túi “COFEE BREAK” thì cùng ngày hôm đó bị cáo D có ở nhà bị cáo nên bị cáo nghĩ D là người mang đến, chứ bị cáo không trực tiếp thấy D mang đến.

1.2. Bị cáo Phùng Nhật D giữ nguyên kháng cáo và trình bày: Bị cáo không bàn bạc, không tham gia cùng với bị cáo T trong việc phụ giúp mua bán trái phép chất ma túy cho đối tượng tên K; bị cáo không được hưởng lợi trong việc giúp T nhận ma túy ngày bị bắt quả tang 13/5/2022. Hành vi phạm tội của bị cáo xảy ra trong thời gian rất ngắn, tức thời ngay khi T nhờ bị cáo giúp nhận hàng, chỉ mang tính bột phát nên mong Hội đồng xét xử khoan hồng cho bị cáo đúng với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo.

2. Phần tranh luận:

2.1. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

2.1.1. Về việc chấp hành pháp luật của HDXX, thư ký và những người tham gia tố tụng Hội đồng xét xử, thư ký và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng pháp luật. Kháng cáo của các bị cáo nằm trong hạn nên cần xem xét theo quy định pháp luật.

2.1.2. Về nội dung:

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Tô Thanh T, Phùng Nhật D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội.

Xét kháng cáo của bị cáo T: Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo T nhưng khối lượng ma túy bị cáo phạm tội là đặc biệt lớn nên hình phạt “Tử hình” là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Bị cáo T kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ, tình tiết mới có cơ sở chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo T, giữ nguyên phần hình phạt đối với bị cáo T.

Xét kháng cáo của bị cáo D: Việc xác định bị cáo D có tham gia cùng với bị cáo T trong việc phụ giúp đối tượng tên K mua bán ma túy và có được hưởng lợi hay không là rất quan trọng. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo có nhiều lời khai và cung cấp nhiều tình tiết mới liên quan đến đối tượng tên K; bị cáo T thay đổi lời khai về việc bị cáo D có tham gia vào việc mua bán trái phép chất ma túy cùng K hay không. Tuy nhiên, để có cơ sở xác định chính xác, toàn diện hành vi phạm tội của bị cáo D, cần hủy một phần bản án sơ thẩm để điều tra lại, làm rõ và truy xét đối tượng tên K để xác định bị cáo D có liên quan hay không trong việc phụ giúp K mua bán trái phép chất ma túy; trích xuất camera tại khu vực căn hộ chung cư mà bị cáo T thuê để xác định ai là người mang đến căn hộ của T gói “COFEE BREAK”; tiếp tục làm rõ, mở khóa mật khẩu điện thoại của bị cáo D để điều tra xác định chứng cứ về việc bị cáo D có tham gia phụ giúp mua bán ma túy với đối tượng K hay không.

2.2. Phần đối đáp của người bào chữa cho bị cáo Tô Thanh T:

Trong vụ án đối tượng tên K là nhân vật chủ chốt tuy nhiên cơ quan tiến hành tố tụng chưa điều tra, truy tìm, truy xét đối tượng tên K là ai để có cơ sở xác định vai trò, tính chất của bị cáo T trong việc phụ giúp mua bán trái phép chất ma túy cho đối tượng K; cơ quan điều tra chưa điều tra rõ về đối tượng K qua hình ảnh và định vị GPS. Do đó, đề nghị hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để làm rõ đối tượng K, làm rõ được vai trò của từng bị cáo. Ngoài ra bị cáo T cung cấp thêm tình tiết vê nhân thân, bị cáo T từng tham gia dân quân tự vệ, có ông là người có công cách mạng 2.3. Phần đối đáp của người bào chữa cho bị cáo Phùng Nhật D:

Cơ quan tiến hành tố tụng chưa trích xuất camera, chưa truy tìm đối tượng tên K để làm rõ mức độ tham gia mua bán trái phép chất ma túy của các bị cáo trong vụ án, vai trò của đối tượng tên K trong vụ án này rất quan trọng; cũng cần trích xuất dữ liệu tin nhắn trong điện thoại bị cáo D để làm rõ tính chất, mức độ tham gia của bị cáo D trong vụ án. Do đó, cần hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại đối với những nội dung này, làm căn cứ xác định tính chất, mức độ tham gia phạm tội của bị cáo D, để từ đó có mức án công bằng hơn cho bị cáo D.

2.4. Đại diện Viện kiểm sát, các luật sư bào chữa cho các bị cáo, các bị cáo giữ nguyên quan điểm về phần tranh tụng của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật.

3. Phần các bị cáo nói lời sau cùng:

3.1 Bị cáo Tô Thanh T: Xin Hội đồng xét xử khoan hồng cho bị cáo để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời.

3.2 Bị cáo Phùng Nhật D: Xin Hội đồng xét xử khoan hồng cho bị cáo để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Các bị cáo Tô Thanh T, Phùng Nhật D đã thực hiện việc kháng cáo theo đúng quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự nên đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Tô Thanh T:

[2.1] Tại phiên tòa, bị cáo T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định:

Vào lúc 14 giờ 30 phút, ngày 13 tháng 5 năm 2022, tại trước khu vực sân của block A chung cư Kingdom 101, số C T, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, Tổ công tác Đội 7 Phòng PC04 - Công an Thành phố H phối hợp với Phòng PC04 Công an Thành phố H, Công an P1, Quận A cùng với các đơn vị nghiệp vụ phòng chống ma túy của T4 đã phát hiện bắt quả tang các bị cáo Tô Thanh T và Phùng Nhật D có hành vi cùng nhau nhận 01 thùng hàng do nhân viên Công ty dịch vụ chuyển phát nhanh EMS giao; bên trong thùng hàng do các bị cáo T và D nhận có chứa số ma túy ở thể rắn các loại có khối lượng gồm: 10.830,91 gam, loại MDMA và 2.297,73 gam, loại Ketamine; thu giữ trong người bị cáo D 1,5994 gam, loại Ketamine, bị cáo D khai mang theo để sử dụng.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Tô Thanh T tại căn hộ A chung cư K số C T, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh thu giữ số ma túy ở thể rắn các loại có khối lượng gồm: 1.980,2892 gam, loại Ketamine; 405,0363 gam, loại MDMA; 829,2439 gam, loại MDMA và Ketamine; 99,05 gam, loại Methamphetamine, MDMA và Nimetazepam. Toàn bộ số ma túy nêu trên đã được giám định, tại Kết luận giám định số 2800/KL-KTHS ngày 20/5/2022 của Phòng K1 - Công an Thành phố H.

Như vậy, bị cáo T phải chịu trách nhiệm hình sự đối với khối lượng ma túy gồm: 11.235,9463 gam, loại MDMA; 4.278,0192 gam, loại Ketamine; 829,2439 gam, loại MDMA và Ketamine; 99,05 gam, loại Methamphetamine, MDMA và Nimetazepam. Kết quả điều tra xác định số ma túy này bị cáo T tham gia giúp sức cho đối tượng tên K (không rõ lai lịch) nhằm mục đích để bán.

[2.2] Bị cáo T nhận thức được việc mua bán trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo T biết rất rõ ma túy là một tệ nạn xã hội nguy hiểm, không chỉ hủy hoại sức khỏe con người, mà còn là nguồn gốc làm phát sinh ra nhiều loại tội phạm khác nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện ý thức coi thường và bất chấp pháp luật.

Hành vi của bị cáo T là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, không những gây mất trật tự trị an, làm gia tăng tệ nạn nghiện ngập trong xã hội mà còn gây khó khăn trong việc phòng, chống tội phạm về ma túy và các tội phạm, tệ nạn xã hội khác.

[2.3] Với hành vi nêu tại mục [2.1] và nhận định tại mục [2.2], Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Tô Thanh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2.4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Tô Thanh T:

[2.4.1] Khi lượng hình, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét nhân thân, áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo T quy định điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng xác định bị cáo T phạm tội một cách chủ động, có vai trò tích cực trong việc phụ giúp mua bán ma túy cho đối tượng tên K với khối lượng ma túy đặc biệt lớn (11.235,9463 gam, loại MDMA; 4.278,0192 gam, loại Ketamine; 829,2439 gam, loại MDMA và Ketamine; 99,05 gam, loại Methamphetamine, MDMA và Nimetazepam) nên cần thiết phải loại bỏ vĩnh viễn bị cáo T ra khỏi đời sống xã hội mới tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, mới có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo T hình phạt từ hình là phù hợp với quy định của pháp luật, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do bị cáo thực hiện.

[2.4.2] Quá trình tố tụng tại giai đoạn phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T không cung cấp được tình tiết mới có căn cứ để xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đối với lời trình bày tại phiên tòa phúc thẩm của bị cáo T cho rằng chỉ đến lần nhận hàng thứ 3 (lần bị bắt quả tang) thì bị cáo mới biết bên trong thùng hàng chứa ma túy, còn 02 lần nhận hàng trước bị cáo không biết là ma túy: căn cứ nội dung và nhận định tại mục [2.1], số lượng ma túy thu giữ tại nhà bị cáo T và lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, có cơ sở xác định bị cáo T biết các lần nhận hàng trước là nhận ma túy giùm K, sau khi bị cáo T nhận thì cất giữ tại nhà mình để K đến phân chia mang đi bán cho người khác. Do đó không có cơ sở chấp nhận lời trình bày này tại phiên tòa phúc thẩm của bị cáo T.

Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo T, cũng như đề nghị của người bào chữa cho bị cáo T. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo T là có căn cứ chấp nhận.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Phùng Nhật D [3.1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tại cấp sơ thẩm, bị cáo T khai bị cáo D có tham gia mua bán ma túy cùng với K, số ma túy bị bắt quả tang và số ma túy thu giữ tại căn hộ của bị cáo T là do bị cáo T nhận, cất giữ cho đối tượng tên K để K phân chia bán lại cho người khác kiếm lời, trong đó có số ma túy do bị cáo D mang đến vào ngày 12/5/2022 trong 02 gói dạng túi cà phê có ghi chữ “COFEE BREAK”, bên trong chứa tinh thể là ma túy; một lúc sau, K đến yêu cầu phân chia 01 gói “COFEE BREAK” thành 10 gói nylon nhỏ (05 gói để ở ngoài và 05 gói để trong hũ nhựa màu trắng có nắp đậy), còn lại 01 gói “COFEE BREAK” chưa phân đều bị thu giữ khi khám xét khẩn cấp. Bị cáo D không thừa nhận có tham gia mua bán trái phép chất ma túy cùng với K, không thừa nhận có mang 02 gói “COFEE BREAK” đến căn hộ của bị cáo T để cho K phân chia như lời khai của bị cáo T.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T thay đổi lời khai, T khai không thấy D và K có bàn bạc mua bán ma túy, không thấy D nói về việc nhận và mua bán ma túy với K; lý do trong quá trình điều tra bị cáo T khai bị cáo D và K cùng mua bán trái phép chất ma túy với nhau là do bị cáo thấy D chơi với K nên bị cáo nghĩ D và K cùng mua bán ma túy chung; đối với 02 gói “COFEE BREAK” trước đây bị cáo T khai do bị cáo D mang đến vào tối 12/5/2022, là do khi bị cáo T về nhà thì thấy trên bàn có 02 gói “COFEE BREAK” và ngày hôm đó bị cáo D có ở nhà bị cáo T nên bị cáo T nghĩ do bị cáo D mang đến.

Mặc dù khối lượng ma túy bị cáo D bị bắt quả tang khi đang nhận từ nhân viên giao hàng không liên quan đến khối lượng ma túy thu giữ tại căn hộ bị cáo T, cũng như không liên quan đến khối lượng ma túy trong gói “COFEE BREAK”, tuy nhiên cần xem xét làm rõ bị cáo D có tham gia việc mua bán trái phép chất ma túy cùng với bị cáo T và đối tượng tên K hay không? Cần trích xuất camera tại các khu vực liên quan; mở khóa mật khẩu điện thoại của bị cáo D, trích xuất nội dung tin nhắn, nội dung trao đổi giữa bị cáo D và bị cáo T trước và tại thời điểm bị cáo D đến căn hộ của bị cáo T vào ngày 12/5/2022, ngày 13/5/2022 để làm rõ có phải bị cáo D mang theo 02 gói “COFEE BREAK” khi đến căn hộ của bị cáo T hay không; làm rõ bị cáo D có nhắn tin, liên lạc với đối tượng tên K hay không, nếu có thì nội dung trao đổi là gì, bị cáo D có mua ma túy của K (để tự sử dụng, tự bán lẻ) hoặc bị cáo D có bàn bạc, thỏa thuận với bị cáo T và đối tượng tên K về việc nhận, cất giữ ma túy để bán lại cùng với K hay không, bị cáo D có tham gia cùng nhóm, đường dây mua bán trái phép chất ma túy với bị cáo T, K hay không, bị cáo D có ăn chia tiền, ma túy hay lợi ích nào khác với bị cáo T và K hay không? Từ đó làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo D vào ngày 13/5/2020 là nảy sinh bất chợt khi bị cáo D đang ở căn hộ của bị cáo T chơi thì bị cáo T rũ bị cáo D xuống sảnh chung cư phụ bị cáo T nhận hàng; hay bị cáo D cùng tham gia, có liên quan đến việc mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo T và đối tượng tên K? Tuy bị cáo D bị bắt quả tang khi đang nhận ma túy có khối lượng lớn nhưng cần làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo D là chỉ mang tính nhất thời, bột phát, xảy ra trong một thời gian rất ngắn ngay khi được T nhờ khiêng thùng hàng, không được hứa hẹn hoặc hưởng lợi gì; hay là sự có sự bàn bạc từ trước, có hưởng lợi, có tham gia trong cùng nhóm, đường dây mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo T và đối tượng tên K, để từ đó có căn cứ xem xét mức hình phạt tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo D, nhằm bảo đảm tính công bằng, phân hóa trách nhiệm hình sự của các bị cáo trong cùng vụ án.

[3.2] Đối với đối tượng tên K Quá trình điều tra, bị cáo T khai đối tượng tên K sử dụng số điện thoại 09067438xx. Cơ quan điều tra đã có công văn gửi Công ty D3 đề nghị xác minh thông tin chủ thuê bao nhưng đến thời điểm kết thúc điều tra vẫn chưa nhận được kết quả trả lời.

Hội đồng xét xử xét thấy khối lượng ma túy thu giữ trong vụ là đặc biệt lớn, cần tiếp tục điều tra làm rõ nhân thân của đối tượng tên K để tránh bỏ lọt tội phạm, làm rõ vai trò của bị cáo D liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của K.

Cần làm rõ cách thức K gửi số điện thoại liên lạc của bị cáo T cho đơn vị dịch vụ vận chuyển, nhân viên giao hàng, các thông tin tên, số điện thoại, địa chỉ K sử dụng khi liên hệ với người giao hàng, đơn vị vận chuyển trong các lần bị cáo T nhận hàng giùm K; bị cáo T còn khai K liên lạc với bị cáo T qua ứng dụng Telegram, Z (bị cáo T không nhớ tài khoản của K) nên cũng cần làm rõ tài khoản của K, thông tin tài khoản, trích xuất nội dung tin nhắn giữa K với bị cáo T; xác định thời điểm K đến căn hộ của bị cáo T và trích xuất hình ảnh camera trong khu vực, lấy lời khai để làm rõ lai lịch của K. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T khai T biết vợ của K tên “Chum” và T đã gặp C 02 lần ở quán ăn tại đường S, ngoài ra T quen K qua lần đi chơi với “P”, do đó cần làm rõ nhân thân, lai lịch, lấy lời khai của người tên “Chum”, “P” để làm rõ lai lịch đối tượng tên K.

[3.3] Do có tình tiết mới phát sinh tại cấp phúc thẩm, cần hủy một phần bản án sơ thẩm về phần tội phạm và hình phạt đối với bị cáo Phùng Nhật D để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật.

[4] Nhận định trên đây cũng là lập luận để chấp nhận một phần, bác bỏ một phần quan điểm của Viện kiểm sát, người bào chữa cho các bị cáo.

[5] Từ các nhận định nêu trên có cơ sở chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Phùng Nhật D, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tô Thanh T, hủy một phần bản án hình sự sơ thẩm số 370/2023/HS-ST ngày 08/8/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về phần tội phạm và hình phạt đối với bị cáo Phùng Nhật D.

[6] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[7] Án phí hình sự phúc thẩm: Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Tô Thanh T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

1.1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tô Thanh T. Giữ nguyên phần hình phạt đối với bị cáo Tô Thanh T tại Bản án hình sự sơ thẩm số 370/2023/HS-ST ngày 08 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Bị cáo Tô Thanh T T hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo Tô Thanh T số tiền 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng, sung ngân sách nhà nước.

1.2. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Phùng Nhật D. Hủy một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 370/2023/HS-ST ngày 08 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về phần tội phạm và hình phạt đối với bị cáo Phùng Nhật D và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh để điều tra lại theo quy định pháp luật.

2. Tiếp tục giam giữ bị cáo Tô Thanh T để đảm bảo Thi hành án.

3. Tiếp tục tạm giam bị cáo Phùng Nhật D cho đến khi Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý lại hồ sơ vụ án.

4. Trong thời hạn 07 (bảy) ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo Tô Thanh T có quyền làm đơn xin Chủ tịch nước ân giảm án từ hình cho mình.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày thời hạn hết kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

6. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Tô Thanh T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

65
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 967/2024/HS-PT

Số hiệu:967/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;