TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TS, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 96/2020/HS-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T.S, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 103/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:
Phạm Tiến T, sinh năm 1991; Nơi đăng ký HKTT: Thôn Q.Y, xã n.Q, huyện P.C, tỉnh Hưng Yên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Tiến T1, sinh năm 1964 và bà Lưu Thị L, sinh năm 1967; Vợ, con: chưa có;
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2019. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 11 giờ ngày 15/12/2019 tại khu nghĩa trang thuộc khu phố C.D, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh B, phòng PC04 Công an tỉnh B phối hợp với Công an thị xã T.S và công an phường Đ.B đã bắt quả tang Phạm Tiến T, sinh năm 1991, HKTT: tại thôn Q.Y, xã N,Q, huyện P.C, tỉnh Hưng Yên đang có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy cho Nguyễn Văn T2, sinh năm 1991, trú tại Khu phố X.T, phường Đ.N, thị xã T.S, tỉnh B với giá 70.000 đồng.
Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ tại lòng bàn tay phải của T2 01 gói nhỏ bên ngoài được bọc bằng lớp giấy màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng. T2 khai đây là ma túy heroine vừa mua được của T; Thu giữ tại túi quần phía trước bên phải của T: số tiền 70.000đồng. T khai đây là tiền bán ma túy cho T2 có được.
Phòng PC04 Công an tỉnh B đã trưng cầu giám định và tại bản kết luận giám định 707/KLGĐMT-PC09 ngày 17/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận:
Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu trắng có khối lượng là 0,0236 gam; là ma túy; Loại ma túy: Heroine;” Với nội dung trên, bản cáo trạng số 70/CT-VKS ngày 27/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S đã quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân thị xã T.S để xét xử bị cáo Phạm Tiến T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Bản thân là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, sống lang thang trên địa bàn thị xã T.S. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 15/12/2019 bị cáo đi đến nghĩa trang thuộc khu phố C.D, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh B thì gặp một người đàn ông không quen biết. Thấy người này có biểu hiện giống với người sử dụng ma túy nên bị cáo hỏi xin ma túy để sử dụng và được người đàn ông này cho 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng. Sau đó người đàn ông này bỏ đi đâu bị cáo không biết. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày khi bị cáo vẫn đang ở trong khu vực nghĩa trang thuộc khu phố C.D thì bị cáo gặp Nguyễn Văn T2, sinh năm 1991 trú tại: Khu phố X.T, phường Đ.N, thị xã T.S, tỉnh B. Tại đây, T2 hỏi mua của bị cáo 70.000 đồng tiền ma túy. Do không có tiền để chi tiêu nên bị cáo nảy sinh ý định bán gói ma túy vừa xin được để kiếm lời. Bị cáo cầm 70.000 đồng T2 đưa cất vào túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi đưa lại cho T2 01 gói ma túy mà bị cáo vừa xin được của người đàn ông không quen biết. Khi T2 vừa dùng tay phải cầm gói ma túy bị cáo đưa thì bị lực lượng Công an phát hiện, kiểm tra bắt quả tang thu giữ vật chứng. Ngoài gói ma túy bị cáo không bị thu giữ gì khác.
Trên cơ sở phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo cũng như xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Tiến T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Tiến T từ 26 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam từ 15/12/2019.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định; Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 70.000 đồng.
Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Vào khoảng 11 giờ ngày 15/12/2019 tại nghĩa trang thuộc khu phố C.D, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh B, phòng PC04 Công an tỉnh B phối hợp Công an thị xã T.S và Công an phường Đ.B đã bắt quả tang Phạm Tiến T có hành vi bán trái phép 01 gói nhỏ ma túy có khối lượng 0,0236 gam chất Heroine cho Nguyễn Văn T2 với số tiền 70.000 đồng. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Phạm Tiến T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S đã truy tố.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm hại tới chính sách quản lý của Nhà nước về các chất ma túy mà còn gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, ảnh hưởng tới sức khỏe con người và là cầu nối của đại dịch HIV. Đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm nguy hiểm khác. Nên cần phải xử lý nghiêm bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình, bên cạnh đó, ông nội bị cáo là liệt sỹ Phạm Tiến X hiện đang do gia đình bị cáo thờ cúng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới giúp bị cáo cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo bán ma túy để kiếm lời đáng lẽ phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, tuy nhiên bị cáo sống lang thang, không có nghề nghiệp và không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Mẫu vật còn lại sau giám định là chất cấm lưu hành nên cần tịch thu và tiêu hủy; Số tiền 70.000 đồng là tiền mua bán ma túy nên cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Liên quan trong vụ án còn có đối tượng tự khai tên Nguyễn Văn T2, sinh năm 1991 trú tại khu phố X.T, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh B. Quá trình làm việc tại cơ quan điều tra, lợi dụng sơ hở T2 đã bỏ trốn. Qua xác minh tại địa chỉ theo lời khai của đối tượng tại địa bàn phường Đ.B không có đối tượng nào có lý lịch như T2 đã khai nhận nên Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau.
Đối với người đàn ông đã cho T ma túy, T khai không có quan hệ, không biết về nhân thân, lai lịch. Vì vậy, Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ xác minh, làm rõ..
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106; Điều 136; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Phạm Tiến T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Xử phạt bị cáo Phạm Tiến T 26 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 15/12/2019.
Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
Tịch thu và tiêu hủy: 01 phong bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B;
Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 70.000 đồng (theo biên bản giao nhận vật chứng).
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 96/2020/HS-ST
Số hiệu: | 96/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/04/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về