Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 91/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P – TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 91/2022/HS-ST NGÀY 29/06/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 198/2021/HSST ngày 15 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 394/2021/HSST-QĐ ngày 07 tháng 12 năm 2021; Thông báo số 88/TB-TA ngày 21/12/2021 và Thông báo số 09/2022/TB-HS ngày 08/6/2022 đối với các bị cáo:

1/ NGUYỄN XUÂN H (tên gọi khác: Không có) - sinh ngày 18/7/1990, tại Bình Thuận; Nơi cư trú: Khu phố 5, phường L, thành phố P, Bình Thuận; Chỗ ở: Khu phố 12, phường P, thành phố P, Bình Thuận; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn:

09/12; Nghề nghiệp: Không có; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Con ông: Nguyễn Văn X, sinh năm 1957 và bà Huỳnh Thị T, sinh năm 1961; Cùng trú tại: Khu phố 5, phường L, thành phố P, Bình Thuận; Chung sống như vợ chồng với bà Trần Thị Thanh H, sinh năm 2002, con: có 01 con sinh năm 2020.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 04/11/2021, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xử phạt 10 năm tù về tội “mua bán trái phép chất ma túy” tại bản án số 43/2021/HS-ST.

Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố P. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2/ TRẦN ĐĂNG S (tên gọi khác: Không có), sinh ngày 27/7/1997 tại Bình Thuận.

Nơi cư trú: Khu phố 01, phường H, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 06/12; Nghề nghiệp: Không có; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Trần Đình T, sinh năm 1953 (chết) và bà Lê Thị X, sinh năm 1956; Trú tại: Khu phố 01, phường H, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Vợ, con: Chưa có. Anh chị em ruột có 02 người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 18/11/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố P áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 tháng tại cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Bình Thuận (đã chấp hành xong ngày 19/01/2022).

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp “cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do có nhu cầu sử dụng ma tuý, vào khoảng 02 giờ 30 phút ngày 01/06/2020 Nguyễn Văn T đi bộ đến nhà của S để mua ma tuý. Khi gặp S, T hỏi mua 200.000 đồng ma túy để sử dụng, Tài nói với S không có tiền Việt Nam đồng mà chỉ có tờ 10USD rồi đưa tờ tiền 10USD cho S, lúc này Nguyễn Xuân H đang ở trong nhà nhà S. Sau khi nhận tiền từ T, S dẫn T đi vào trong nhà gặp H, S đưa tờ tiền 10USD cho H và nói bán cho T 200.000 đồng. H hiểu là T muốn mua ma tuý nên nhận tờ 10USD xong thì nói S làm ma túy cho H, S dùng kéo, nylon cắt hàn gói nylon xong đưa cho H. H lấy ma túy đá trong gói ma túy của mình cho vào gói nylon S vừa làm rồi đưa cho S hàn lại thành gói ma túy đá rồi giao cho T. T nhận ma tuý xong đem về nhà cất giữ để sử dụng.

Đến khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 01/06/2020, Công an phường H, thành phố P tiến hành kiểm tra hành chính nhà Nguyễn Văn T, thì phát hiện T có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Công an phường H đã lập biên bản sự việc, tạm giữ tang vật liên quan gồm:

01 gói nylon không màu, hàn kín, kích thước khoảng (01 x 03) cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng (thu giữ trên bàn gỗ cạnh giường, trong phòng ngủ của Nguyễn Văn Tài, ký hiệu M khi giám định).

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn T, Nguyễn Xuân H, Trần Đăng S đã khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Tại bản kết luận giám định số 584 ngày 10/06/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,2170 gam; là Methamphetamine.

Xử lý vật chứng:

Đối với các mẫu ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 584, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận. Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã ra Quyết định chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P bảo quản, chờ xử lý.

Đối với tờ tiền 10USD, quá trình điều tra xác định được Nguyễn Xuân H đã đem cho người tên T (không rõ nhân thân) nên không thu hồi được.

Đối với chiếc điện thoại thu giữ của S vào ngày 01/6/2020, hiện nay cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho S.

Tại các lời khai, biên bản hỏi cung các bị cáo, biên bản ghi lời khai của người làm chứng trong quá trình điều tra đều thể hiện các bị cáo Nguyễn Xuân H có hành vi bán trái phép cho Nguyễn Văn T 01 gói ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,2170gam với giá 10 USD và S là người giúp sức cho H trong việc nhận tiền, hàn gói nilon, giao ma túy từ H cho T.

Với hành vi nêu trên, ngày 11/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết ra bản cáo trạng số 199/CT-VKS truy tố các bị cáo H, S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 01 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết phát biểu lời luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Xuân H đã thừa nhận hành vi bán trái phép cho Nguyễn Văn T 01 gói ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,2170gam với giá 10 USD và bị cáo S là người giúp sức cho H trong việc nhận tiền, hàn gói nilon, giao ma túy từ H cho T. Do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố P giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 01 Điều 251 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt đề nghị xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vì các bị cáo Nguyễn Xuân H, Trần Đăng S không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo H, S đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Qua đó đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng khoản 01 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo Trần Đăng S từ 02 năm tù đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy đối với mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 584, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo H, S không trình bày lời bào chữa cũng như không có ý kiến về lời luận tội của Viện kiểm sát đồng thời thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết. Các bị cáo biết việc làm của mình là sai và xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa;

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ buộc tội các bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, các bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố là đúng, không oan. Lời nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, cũng như các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 02 giờ 30 ngày 01/06/2020, tại khu phố 1 phường H, thành phố P, Nguyễn Xuân H và Trần Đăng S đã bán trái phép cho Nguyễn Văn T 01 gói nylon chứa Methamphetamine có khối lượng 0,2170 gam với giá 10USD. Nguyễn Văn T đem ma tuý về nhà tại khu phố 1, phường H cất giữ để sử dụng thì bị phát hiện thu giữ.

Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, trong đó Nguyễn Xuân H là người bán ma tuý cho Nguyễn Văn T, Trần Đăng S là người giúp sức cho Nguyễn Xuân H trong việc nhận tiền, hàn gói nylon chứa ma tuý, giao ma tuý từ Nguyễn Xuân H cho Nguyễn Văn Tài.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo: Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước về chất ma túy; các bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức cũng như khả năng điều khiển hành vi và thực hiện hành vi phạm tội một cách cố ý. Do đó cáo trạng số 199/CT-VKS ngày 11/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết truy tố các bị cáo H, S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 01 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ.

Các bị cáo H, S biết Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm tàng trữ, mua bán trái phép vì hậu quả nguy hại của nó đối với sức khỏe con người và trật tự trị an xã hội nhưng bị cáo H, S vẫn cố ý thực hiện hành vi mua bán trái phép ma túy. Hành vi này không những xâm phạm đến chính sách quản lý của nhà nước về chất ma túy, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội nên cần phải xử phạt một mức án tù tương xứng nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo H, S không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo H, S đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 584, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối số tiền 10 USD H đã đem cho người tên T (không rõ nhân thân) nên không thu hồi được.

Đối với chiếc điện thoại thu giữ của bị cáo S vào ngày 01/6/2020, hiện cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố P đã trả lại cho S nên Hội đồng xét xử không xét.

Đối với Tài, quá trình điều tra T đã bỏ trốn khỏi địa phương, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P đã ra quyết định truy nã bị can đối với Tài. Ngày 19/4/2022, Nguyễn Văn T đã bị Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận xét xử 12 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

* Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Xuân H và Trần Đăng S cùng phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân H 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

* Xử phạt: Bị cáo Trần Đăng S 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 584, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận;

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 71 ngày 09/5/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố P).

* Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Nguyễn Xuân H, Trần Đăng S mỗi bị cáo nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo của các bị cáo là 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án (29/6/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 91/2022/HS-ST

Số hiệu:91/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;