Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 90/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. BUÔN MA THUỘT – TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 90/2022/HS-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/2022/HSST ngày 02/3/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2022/QĐXXST-HS ngày 18/3/2022 Quyết định hoãn phiên Tòa số: 16/2022/HSST- QĐ ngày 29/3/2022 và Thông báo V/v dời lịch xét xử số:12/TB- TA ngày 05/4/2022 và thông báo số: 12/TB-TA ngày 05/4/2022, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lê Đặng Huy H; tên gọi khác: Không; Sinh ngày 25 tháng 11 năm 2000; tại Đắk Lắk Nơi đăng ký HKTT: Liên gia 3, tổ dân phố 6, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: phật giáo; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Lê Đình Th, sinh năm 1967. Con bà Đặng Thị S, sinh năm 1967. Địa chỉ: Liên gia 3, tổ dân phố 6, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo chưa có vợ con Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 28/11/2021 cho đến nay. Có mặt

2. Họ và tên: Phan Gia N; tên gọi khác: Không; Sinh ngày 28 tháng 9 năm 2001; tại Đắk Lắk Nơi đăng ký HKTT: Thôn T, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Phan Văn Th, sinh năm 1970. Con bà Phạm Thị Thanh H, sinh năm 1975. Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án; Tiền sự : Không Bị cáo bị tạm giữ tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 27/11/2021 cho đến nay. Có mặt

3. Họ và tên: Trịnh Hoài A; tên gọi khác: Không; Sinh ngày 21 tháng 3 năm 2002; tại Đắk Lắk Nơi đăng ký HKTT: Thôn H, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Trịnh Hoài V, sinh năm 1960. Con bà Trịnh Thị H, sinh năm 1976. Địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 27/11/2021 cho đến nay.

Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Trịnh Hoài V, sinh năm: 1960 Địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện K, tỉnh ĐắkLắk. (Có mặt)

2. Ông Lê Đình Th, sinh năm: 1967 bà Đặng Thị S, sinh năm: 1967 Địa chỉ: Liên gia 3, tổ dân phố 6, Phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

(Đều có mặt)

3. Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1958 Địa chỉ: 51/8 đường Đ, Phường T, thành phố B, tỉnh ĐắkLắk (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Đặng Huy H là đối tượng nghiện ma túy loại Cần sa. Vào khoảng tháng 5/2021, qua mạng xã hội H đã liên hệ và mua hạt giống cần sa về trồng rồi phơi khô để bán. H trồng trong các chậu nhỏ để trong phòng ngủ, xung quanh vườn tại địa chỉ liên gia 3, tổ dân phố 6, phường T, thành phố B. Khoảng tháng 10/2021, H thu hoạch hoa, lá, cành và búp cần sa rồi phơi khô, cất trong phòng ngủ để có ai hỏi mua thì bán kiếm lời.

Ngày 25/11/2021, H tổ chức sinh nhật tại nhà thì có bạn Phan Gia N đến chơi. Tại đây, N biết H có ma túy Cần sa nên đã hỏi mua với số tiền 1.000.000 đồng thì H đồng ý nhưng chưa giao nhận tiền, ma túy. Đến ngày 27/11/2021, N một mình đến gặp H tại khu vực đầu hẻm gần nhà H lấy ma túy nhưng là bạn bè nên H cho nợ tiền. Mua được ma túy, N mang về đưa cho bạn là Trịnh Hoài A cất giấu trong phòng trọ A đang thuê tại địa chỉ hẻm 51/8 đường Đ, phường T, thành phố B để bán kiếm lời. Khoảng 16 giờ ngày 27/11/2021, khi N, A đang ở phòng trọ của A thì có một người nam giới (không rõ lai lịch) sử dụng số điện thoại 0877.014.087 gọi vào số 0377.243.097 gắn trên chiếc điện thoại hiệu Iphone của A hỏi mua 3.000.000 đồng ma túy Cần sa thì A, N đồng ý lấy gói ma túy trước đó N đưa cho A để cùng đi bán. Sau đó A điều khiển xe mô tô BKS 47M1 – 391.72 chở N ngồi sau cùng đi. Khi cả hai vừa đến khu vực đường Đ – N, phường T, thành phố B thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ 01 gói nylon bên trong chứa thảo một khô màu xanh đã được niêm phong theo quy định pháp luật.

Căn cứ lời khai của Phan Gia N, Cơ quan điều tra đã giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lê Đặng Huy H. Khám xét khẩn cấp nơi ở của H tại liên gia 3, tổ dân phố 6, phường T, thành phố B thu giữ: 01 hộp xốp bên trong có 12 cây thảo mộc đang phát triển bình thường trong 12 chậu nhựa; 01 hộp xốp bên trong có 08 cây thảo mộc đang phát triển bình thường trong 08 chậu nhựa; 01 hộp giấy bên trong chứa chất thảo mộc khô; 01 bao nylon bên trong chứa 13 cây thảo mộc tươi và một số tài sản khác có liên quan.

Tại Kết luận giám định số 1142/GĐMT-PC09 ngày 06/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk đã kết luận (Cân ngày 29/11/2021) - Chất thảo mộc khô đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định có chất ma túy, khối lượng 13,8 gam, loại Cần Sa (Ma túy thu giữ của Phan Gia N và Trịnh Hoài A).

- Mẫu 12 cây thảo mộc đựng trong 12 chậu nhựa được niêm phong gửi giám định có chứa chất ma túy, tổng khối lượng 48 gam, loại Cần sa.

- Mẫu 08 cây thảo mộc đựng trong 08 chậu nhựa được niêm phong gửi giám định có chứa chất ma túy, tổng khối lượng 32 gam, loại Cần sa.

- Chất thảo mộc khô đựng trong 01 hộp giấy carton được niêm phong gửi giám định có chứa ma túy, khối lượng 150 gam, loại Cần sa.

- 13 cây thảo mộc tươi đựng trong 01 bao nylon được niêm phong gửi giám định có chứa chất ma túy, khối lượng 1000 gam, loại Cần sa.

Tại bản cáo trạng số: 79/CT-VKS ngày 01/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, đã truy tố các bị cáo Lê Đặng Huy H, Phan Gia N và Trịnh Hoài A về tội : “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột sau khi phân tích, đánh giá hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vẫn giữ N quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

-Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố các bị cáo Lê Đặng Huy H, Phan Gia N và Trịnh Hoài A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” Xử phạt: Bị cáo Lê Đặng Huy H mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Xử phạt bị cáo Phan Gia N mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù Xử phạt bị cáo Trịnh Hoài A mức án từ từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù

Các biện pháp tư pháp: Căn cứ các Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Đối với chất thảo mộc khô còn lại trong 01 gói nylon có khối lượng 10 gam và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu được niêm phong trong một phong bì. 130 gam thảo mộc khô, Phần còn lại của 13 cây thảo mộc có khối lượng 900 gam, 12 cây thảo mộc có khối lượng 33 gam, 08 cây thảo mộc có khối lượng 22 gam được niêm phong trong một thùng xốp. Phần đất, 20 chậu được niêm phong trong một thùng xốp. Tất cả được niêm phong trong 03 gói cùng số 1142/GĐMT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk còn lại sau giám định (kèm biên bản đóng gói niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định) là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 cân tiểu ly màu đen; 01 bộ quấn thuốc lá điếu; 05 tập giấy dùng để quấn thuốc lá điếu; 01 bộ đồ sử dụng thuốc lá bằng thủy tinh; 01 máy xay thịt gồm máy và thân máy có chữ Panasonic; 01 cân cơ loại 02kg màu xanh;

01 bình xịt nước màu vàng; nhiều túi nylon màu trắng; Nhiều tờ bia carton chưa được ghép thành hình là tài sản bị cáo Lê Đặng Huy H sử dụng vào việc phạm tội.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone kèm sim 0377.245.097 của bị cáo Trịnh Hoài A; 01 điện thoại di động hiệu Iphone kèm sim 0346.314.980 của bị cáo Lê Đặng Huy H sử dụng làm phương tiện phạm tội.

- Truy thu số tiền 1000.000 đồng của bị cáo Phan Gia N sử dụng để mua ma túy của bị cáo H nhưng chưa trả.

- Đối với chiếc xe mô tô BKS 47M1 – 391.72 mà bị cáo Trịnh Hoài A sử dụng làm phương tiện N đi bán ma túy là của ông Trịnh Hoài V (bố ruột bị cáo A). Quá trình điều tra đã xác định, ông V không biết, không liên quan đến hành vi phạm tội trên. Vì vậy, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng, trả tài sản cho ông Việt nhận quản lý, sử dụng là phù hợp.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và không có ý kiến đối đáp tranh luận gì, mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét quá trình điều tra, truy tố. Điều tra viên đã thi hành các quyết định tố tụng, cũng như lấy lời khai của bị cáo, những người tham gia tố tụng khác là đảm bảo đúng theo trình tự quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử kiểm sát viên đã thực hiện việc kiểm sát hoạt động tố tụng đúng theo quy định của pháp luật nên bị cáo không có ý kiến gì hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ để kết luận:

Do ý thức coi thường pháp luật, nên vào khoảng tháng 5/2021, Lê Đặng Huy H đã mua hạt giống cần sa về trồng tại nơi ở địa chỉ liên gia 3, tổ dân phố 6, phường T, thành phố B rồi thu hoạch phơi khô để bán kiếm lời. Đến ngày 27/11/2021, H bán cho Phan Gia N 01 gói Cần sa khô với khối lượng 13,8 gam thì N bị lực lượng Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện bắt quả tang khi N đang cùng Trịnh Hoài A đi bán tại khu vực đường Đ – N, phường T, thành phố B.

Căn cứ lời khai của N, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột khám xét khẩn cấp nơi ở của H tại liên gia 3, tổ dân phố 6, phường T, thành phố B. Thu giữ 33 cây Sa tươi, khối lượng 1.080 gam và Cần sa khô khối lượng 150 gam để bán kiếm lời.

Tại phiên Tòa sau khi đánh giá tình chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột vẫn giữ N quyết định truy tố các bị cáo Lê Đặng Huy H, Phan Gia N và Trịnh Hoài A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự, là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Xét tính chất vụ án, xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm sự thống nhất quản lý các chất ma túy của Nhà nước; các bị cáo nhận thức được ma túy là chất gây nghiện làm hủy hoại sức khỏe con người, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội, tội phạm về hình sự như cướp giật, trộm cắp… song do ý thức coi thường pháp luật các bị cáo đã cố ý mua bán trái phép chất ma túy loại cần sa. Vì vậy các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra và cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo cải tạo thành công dân tốt và răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên trong vụ án có nhiều bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, vai trò, tính chất thực hiện hành vi phạm tội của các bị cáo khác nhau nên mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo khác nhau: Bị cáo Lê Đặng Huy H là người trực tiếp mua hạt giống cây cần sa về trồng rồi bán cho bị cáo Phan Gia N và khối lượng ma túy của bị cáo H nhiều hơn bị cáo N và bị cáo A nên mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo H nghiêm khắc hơn bị cáo N và bị cáo A là phù hợp;

[3]. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo nhằm thể hiện tính khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.

[4].Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với chất thảo mộc khô còn lại trong 01 gói nylon có khối lượng 10 gam và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu được niêm phong trong một phong bì. 130 gam thảo mộc khô, Phần còn lại của 13 cây thảo mộc có khối lượng 900 gam, 12 cây thảo mộc có khối lượng 33 gam, 08 cây thảo mộc có khối lượng 22 gam được niêm phong trong một thùng xốp. Phần đất, 20 chậu được niêm phong trong một thùng xốp. Tất cả được niêm phong trong 03 gói cùng số 1142/GĐMT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk còn lại sau giám định (kèm biên bản đóng gói niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định) là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

- Đối với 01 cân tiểu ly màu đen; 01 bộ quấn thuốc lá điếu; 05 tập giấy dùng để quấn thuốc lá điếu; 01 bộ đồ sử dụng thuốc lá bằng thủy tinh; 01 máy xay thịt gồm máy và thân máy có chữ Panasonic; 01 cân cơ loại 02kg màu xanh; 01 bình xịt nước màu vàng; nhiều túi nylon màu trắng; Nhiều tờ bia carton chưa được ghép thành hình là tài sản bị cáo Lê Đặng Huy H sử dụng vào việc phạm tội không còn có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone kèm sim 0377.245.097 của bị cáo Trịnh Hoài A; 01 điện thoại di động hiệu Iphone kèm sim 0346.314.980 của bị cáo Lê Đặng Huy H sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước là phù hợp.

- Đối với số tiền 1000.000 đồng bị cáo Phan Gia N sử dụng để mua ma túy của bị cáo H nhưng chưa trả nên cần truy thu sung Ngân sách nhà nước là phù hợp.

- Đối với chiếc xe mô tô BKS 47M1 – 391.72 mà bị cáo Trịnh Hoài A sử dụng làm phương tiện N đi bán ma túy là của ông Trịnh Hoài V (bố ruột bị cáo A). Quá trình điều tra đã xác định, ông V không biết, không liên quan đến hành vi phạm tội trên. Vì vậy, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng, trả tài sản cho ông Việt nhận quản lý, sử dụng là phù hợp.

[5] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo N, A. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp. Riêng bị cáo H kết quả xét nghiệm âm tính với ma túy túy nên Công an thành phố Buôn Ma Thuột không xử phạt hành chính là phù hợp.

Đối với nguồn gốc hạt giống cần sa, bị cáo H khai nhận đặt mua trên trang mạng xã hội và được nhân viên giao hàng đưa đến. Quá trình điều tra chưa xác định được thông tin liên quan nên Cơ quan điều tra tách ra khỏi vụ án, tiếp tục điều tra xác minh, làm rõ xử lý sau là phù hợp.

Đối với người nam giới hỏi mua ma túy Cần sa của A, N. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh và có công văn trao đổi thông tin đến nhà mạng yêu cầu cung cấp thông tin thuê bao nhưng đến nay vẫn chưa nhận được phúc đáp. Vì vậy, Cơ quan điều tra tách ra khỏi vụ án, tiếp tục điều tra xác minh, làm rõ xử lý sau là phù hợp.

Đối với ông Lê Đình Th – bà Đặng Thị S (bố mẹ bị cáo H). Quá trình điều tra đã xác định ông, bà không biết việc bị cáo H trồng cần sa để bán, không liên quan đến hành vi phạm tội. Vì vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với ông Nguyễn Văn S (chủ dãy trọ cho A thuê phòng). Quá trình điều tra đã xác định ông S không biết việc bị cáo A có cất giấu ma túy trong phòng trọ. Vì vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự ; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Các bị cáo Lê Đặng Huy H, Phan Gia N và Trịnh Hoài A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” Xử phạt: Bị cáo Lê Đặng Huy H 02 ( hai) năm 06 ( Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ tạm giam là ngày 28/11/2021.

Xử phạt bị cáo Phan Gia N 02 (hai) năm tù thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ tạm giam là ngày 27/11/2021.

Xử phạt bị cáo Trịnh Hoài A 02 (hai) năm tù thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ tạm giam là ngày 27/11/2021 [2] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy chất thảo mộc khô còn lại trong 01 gói nylon có khối lượng 10 gam, toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu được niêm phong trong một phong bì; 130 gam thảo mộc khô, Phần còn lại của 13 cây thảo mộc có khối lượng 900 gam, 12 cây thảo mộc có khối lượng 33 gam, 08 cây thảo mộc có khối lượng 22 gam được niêm phong trong một thùng xốp (tất cả được cân ngày 29/11/2021). Phần đất, 20 chậu được niêm phong trong một thùng xốp và được niêm phong trong 03 gói cùng số 1142/GĐMT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk còn lại sau giám định (kèm biên bản đóng gói niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định) - Tịch thu tiêu hủy: 01 cân tiểu ly màu đen; 01 bộ quấn thuốc lá điếu; 05 tập giấy dùng để quấn thuốc lá điếu; 01 bộ đồ sử dụng thuốc lá bằng thủy tinh; 01 máy xay thịt gồm máy và thân máy có chữ Panasonic; 01 cân cơ loại 02kg màu xanh;

01 bình xịt nước màu vàng; nhiều túi nylon màu trắng; Nhiều tờ bia carton chưa được ghép thành hình là tài sản bị cáo Lê Đặng Huy H sử dụng vào việc phạm tội.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS, số imel: 356169094025445 kèm sim; 01 điện thoại di động hiệu Iphone X, số imel:

353053097882114 kèm sim.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 02/3/2022 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục thi hành án dân sự thành phố B) - Truy thu của bị cáo Phan Gia N để sung ngân sách nhà nước số tiền 1000.000 đồng (Một triệu đồng) - Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô BKS 47M1 – 391.72 cho ông Trịnh Hoài V nhận quản lý, sử dụng.

[1]Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Các Bị cáo Lê Đặng Huy H, Phan Gia N và Trịnh Hoài A mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 90/2022/HS-ST

Số hiệu:90/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;