Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 89/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 89/2023/HS-ST NGÀY 17/11/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 86/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Hồ Tuấn L; tên gọi khác: Không; sinh ngày 25/4/1996 tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nơi cư trú: Thôn T, xã P, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn R (đã chết) và bà Hà Thị U; vợ: Lý Thị I và có 03 con; tiền án; tiền sự: Không; nhân thân: Bị cáo chưa bị kết án, chưa bị xử lý kỷ luật nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính cụ thể: Ngày 12/9/2017, bị cáo bị Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 256/QĐ-XPVPHC về hành vi xâm hại sức khỏe người khác, phạt tiền với số tiền là 2.500.000 đồng, ngày 18/9/2017 bị cáo đã nộp tiền phạt (đã được xóa), bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/4/2023, tạm giam từ ngày 20/4/2023 đến nay; có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Vi Văn Đ; vắng mặt.

+ Chị Hoàng Thị T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 40 phút ngày 08/4/2023, Tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Lạng Sơn tiến hành kiểm tra nhà nghỉ N có địa chỉ tại tổ E, khối F, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, Qua kiểm tra phát hiện tại phòng 304 có 06 đối tượng gồm: Vương Văn Đ1, sinh năm 1989, trú tại: Số E1, đường M, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; Vũ Anh T1, sinh năm 1996, trú tại: Số F1, đường M, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; Vi Văn Đ, sinh năm 1990, trú tại: Số E2, đường D, thôn H, xã O, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; Hoàng Thị T, sinh năm 1998, trú tại: Xã V, huyện A, tỉnh Tuyên Quang;

Nguyễn Thị Hải Y, sinh năm 2002, trú tại: Thôn B, xã G, huyện X, tỉnh Bắc Giang; Nguyễn Thị L1, sinh năm 1999, trú tại: Thôn I, xã M, huyện S, thành phố Hà Nội có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã thu giữ tại phòng 01 đĩa sứ màu trắng, bên trên đĩa có chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy; 01 ống hút màu đen; 02 túi nilon dạng zip; 01 thẻ ATM cùng một số tang vật khác.

Tại Cơ quan điều tra, Vi Văn Đ khai nhận: Rạng sáng ngày 08/4/2023, Vi Văn Đ đã rủ Vương Văn Đ1, Vũ Anh T1 đến nhà nghỉ N để sử ma túy Ketamine và "Kẹo" (MDMA). Sau đó Vi Văn Đ gọi điện thoại cho Hoàng Thị T mượn tiền để mua ma túy. Hoàng Thị T sau khi được Vi Văn Đ gọi điện thoại đã chuyển khoản cho Vi Văn Đ 8.000.000 đồng và nhắn tin cho Vi Văn Đ số điện thoại của Hồ Tuấn L là người bán ma túy, sau đó Hoàng Thị T đã chuẩn bị loa, đèn bằng cách cho vào 02 túi xách và rủ Nguyễn Thị Hải Y, Nguyễn Thị L1 đến nhà nghỉ N, sử dụng loa đèn và cùng nhau sử dụng ma túy với nhóm của Vi Văn Đ.

Tại bản Kết luận giám định số: 451/KL-KTHS ngày 12/4/2023 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: "Chất tinh thể màu trắng gửi giám định là chất ma túy ketamine, có khối lượng 0,075gam".

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Vi Văn Đ và Hoàng Thị T về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy để điều tra. Quá trình điều tra đã xác định Hồ Tuấn L là người bán ma túy cho Vi Văn Đ ngày 08/4/2023 để sử dụng.

Ngày 17/4/2023, Hồ Tuấn L đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội như sau: Tháng 12/2022, L làm nhân viên phục vụ quán hát Karaoke X tại xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Trong một lần dọn phòng hát, Hồ Tuấn L nhặt được 01 túi nilon có 06 viên ma túy kẹo và 01 túi nilon có ma túy Ketamine, Hồ Tuấn L đem về nhà cất giấu và nảy sinh ý định bán ma túy cho người khác. Ngày 08/4/2023, Hồ Tuấn L đang ở nhà thì nhận được điện thoại của Vi Văn Đ hỏi chỗ mua ma túy, do sẵn có số lượng ma túy gồm 01 chỉ Ketamine và 06 viên ma túy kẹo, Hồ Tuấn L nói cho Đ biết và nói giá bán số ma túy trên là 6.700.000 đồng thì Vi Văn Đ đặt mua, Hồ Tuấn L yêu cầu Vi Văn Đ trả tiền trước và gửi số tài khoản 104867218158 của ngân hàng Vietinbank của mình cho Vi Văn Đ. Sau khi có số tài khoản Vi Văn Đ đã chuyển cho Hồ Tuấn L số tiền 6.700.000 đồng và bảo Hồ Tuấn L đem ma túy đến nhà nghỉ N, số Y, đường I, tổ E, khối F, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn giao cho Vi Văn Đ. Sau đó Hồ Tuấn L đón xe taxi đến địa điểm do Vi Văn Đ đã báo trước giao ma túy cho Vi Văn Đ như đã thỏa thuận và đi về nhà.

Sau khi nghe tin Vi Văn Đ và các đối tượng sử dụng ma túy bị bắt, ngày 17/4/2023, Hồ Tuấn L đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội.

Tại Công văn số 309/PC09 ngày 19/7/2023 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn phúc đáp công văn số 1799/CSMT ngày 17/7/2023 của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Lạng Sơn xác định: 06 viên ma túy MDMA và 01 chỉ Ketamine do Hồ Tuấn L đã bán cho Vi Văn Đ và Hoàng Thị T cùng các đối tượng khác sử dụng hết thì khối lượng của 01 viên ma túy MDMA có khối lượng thấp nhất là 0,350gam đến 0,550gam; 01 chỉ ma túy Ketamine có khối lượng 01gam. Do vậy, hành vi của Hồ Tuấn L đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251của Bộ luật Hình sự năm 2015.

* Các tình tiết, đối tượng liên đến quan vụ án. Đối với Vi Văn Đ và Hoàng Thị T là những người thực hiện hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn trong quá trình điều tra vụ án thấy còn nhiều đối tượng liên quan chưa được làm rõ. Ngày 08/9/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đã ra Quyết định tách vụ án hình sự số 13/QĐ-CSMT và các vật chứng liên quan để tiếp tục điều tra đối với Vi Văn Đ và Hoàng Thị T trên để xử lý sau.

Bản Cáo trạng số: 116/CT-VKS-P2 ngày 09/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hồ Tuấn L về Tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Hồ Tuấn L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Hồ Tuấn L phạm Tội mua bán trái phép chất ma túy. Căn cứ khoản 1 Điều 251; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Hồ Tuấn L từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có công việc ổn định, không có tài sản gì có giá trị. Nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm b khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 6.700.000 đồng (sáu triệu bẩy trăm nghìn đồng) của bị cáo Hồ Tuấn L giao nộp, đây là số tiền do bị cáo phạm tội mà có.

Trả lại cho bị cáo Hồ Tuấn L 01 (một) Căn cước công dân số 0200X4616 mang tên Hồ Tuấn L, đây là giấy tờ tùy thân của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội.

Đối với 0,075 gam ma túy được thể hiện tại bản kết luận giám định số 451/KL-KTHS ngày 12/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn do có liên quan đến vụ khác đã được tách ra để xử lý sau. Nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết trong vụ án này.

Các biện pháp tư pháp: Không có.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Bị cáo nhất trí với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát và không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật và rất hối hận, xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Quá trình điều tra, truy tố người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng, giải thích hướng dẫn bị cáo về quyền tiếp cận trợ giúp pháp lý, quyền nhờ người bào chữa theo quy định. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt những người làm chứng anh Vi Văn Đ, chị Hoàng Thị T. Xét thấy, việc vắng mặt của những người làm chứng nêu trên không ảnh hưởng đến việc xét xử vì trong hồ sơ đã có đầy đủ lời khai của họ. Do đó, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt những người làm chứng theo quy định tại khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[3] Lời khai nhận tội của bị cáo Hoàng Tuấn L tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng thu giữ được, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ căn cứ xác định: Ngày 08/4/2023, Hồ Tuấn L đã có hành vi bán trái phép 06 viên ma túy MDMA (ma túy kẹo) và 01 chỉ ma túy Ketamine cho Vi Văn Đ tại nhà nghỉ N, số Y, đường I, tổ E, khối F, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn với giá 6.700.000 đồng. Tổng khối lượng chất ma túy do Hồ Tuấn L đã bán trái phép là 2,1gam MDMD và 01gam Ketamine. Với hành vi trên, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Hồ Tuấn L phạm Tội mua bán trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo Hồ Tuấn L là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp nghiêm trọng, khi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, có đủ khả năng để nhận thức hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích hám lợi mà bị cáo vẫn cố ý thực hiện việc phạm tội. Chúng ta đều biết ma túy là chất gây nghiện nguy hiểm do Nhà nước độc quyền quản lý, ma túy gây tổn hại về mặt kinh tế của gia đình và bản thân người sử dụng, gây hủy hoại sức khỏe của con người. Ma túy là nguyên nhân phát sinh, gia tăng nhiều loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, gây mất trật tự, an ninh chính trị tại địa phương, gây nỗi bất bình trong quần chúng nhân dân. Hiện nay, việc đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy đang là nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội. Chính vì vậy, hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh đúng theo pháp luật nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Để có hình phạt đúng người, đúng tội, đúng pháp luật Hội đồng xét xử sẽ xem xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, cụ thể như sau:

[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.

[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; ngoài ra sau khi sự việc mua bán ma túy bị phát hiện bị cáo đã ra đầu thú, tự nguyện giao nộp số tiền 6.700.000 đồng tiền thu lợi bất chính cho Cơ quan điều tra, nên bị cáo được hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[9] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo. Xét thấy, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống, xã hội trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng cho bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, theo nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội quy định tại Điều 3 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì khoan hồng đối với người đầu thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên khi lượng hình cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo trở thành người có ích cho xã hội.

[10] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:“Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”. Do đó, bị cáo Hồ Tuấn L có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo biên bản xác minh có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa thể hiện: Bị cáo không có công việc ổn định, không có tài sản gì có giá trị. Nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[11] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm b khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Hội đồng xét xử xét thấy:

[12] Đối với số tiền 6.700.000 đồng (sáu triệu bẩy trăm nghìn đồng) của bị cáo Hồ Tuấn L giao nộp. Xác định, đây là số tiền bị cáo thu lợi từ hành vi phạm tội. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[13] Đối với 01 (một) Căn cước công dân số 0200X4616 mang tên Hồ Tuấn L. Xác định, đây là giấy tờ tùy thân của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội. Trả lại cho bị cáo Hồ Tuấn L.

[14] Đối với 0,075 gam ma túy được thể hiện tại bản kết luận giám định số 451/KL-KTHS ngày 12/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn do có liên quan đến vụ khác đã được tách ra để xử lý sau. Nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[15] Các biện pháp tư pháp: Không có.

[16] Đối với Vi Văn Đ và Hoàng Thị T là những người thực hiện hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn trong quá trình điều tra vụ án thấy còn nhiều đối tượng liên quan chưa được làm rõ. Ngày 08/9/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đã ra Quyết định tách vụ án hình sự số 13/QĐ-CSMT và các vật chứng liên quan để tiếp tục điều tra đối với Vi Văn Đ và Hoàng Thị T trên để xử lý sau. Hội đồng xét xử không xem xét.

[17] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, hình phạt và một số nội dung khác phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[18] Về án phí: Bị cáo bị kết án, nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[19] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 332, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Căn cứ b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, điểm b khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106, khoản 1 Điều 293, Điều 331, Điều 332, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hồ Tuấn L phạm Tội mua bán trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hồ Tuấn L 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 17/4/2023.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 6.700.000 đồng (sáu triệu bẩy trăm nghìn đồng) của bị cáo Hồ Tuấn L.

3.2. Trả lại cho bị cáo Hồ Tuấn L 01 (một) Căn cước công dân số 0200X4616 mang tên Hồ Tuấn L.

(Các vật chứng trên đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn và được ghi chi tiết tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/10/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn và Chi cục thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Bị cáo Hồ Tuấn L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 89/2023/HS-ST

Số hiệu:89/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;