Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 86/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 86/2022/HS-ST NGÀY 15/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 9 năm 2022, tại Hội trường xét xử - Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 79/2022/TLST-HS ngày 02/8/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 82/2022/QĐXXST-HS ngày 31/8/2022, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn B, tên gọi khác: Lỳ; giới tính: Nam; sinh ngày 29/8/1998 tại tỉnh Quảng Trị; nơi cư trú: Khu phố B, Phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Thợ hàng mã; trình độ học vấn: 07/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Không xác định; con bà: Nguyễn Thị H (đã chết); gia đình có 03 chị em, bị cáo là con út; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân:

- Ngày 01/02/2019, bị UBND phường 2, thành phố Đông Hà áp dụng biện pháp giáo xử lý hành chính giáo dục tại phường trong thời hạn 03 tháng.

- Ngày 20/9/2019, bị TAND thành phố Đông Hà áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngày 01/8/2020 đã chấp hành xong.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/3/2022 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đông Hà cho đến nay.

2. Nguyễn Huỳnh Văn Q, tên gọi khác: Bun; giới tính: Nam; sinh ngày 30/5/2001 tại tỉnh Quảng Trị; nơi cư trú: Khu phố B, Phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Thợ làm lốp ô tô; trình độ học vấn: 09/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Không rõ; con bà: Nguyễn Thị G, sinh năm 1975; bị cáo là con duy nhất trong gia đình; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21/4/2022 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đông Hà cho đến nay.

3. Nguyễn Đức K; giới tính: Nam; sinh ngày 16/7/1995 tại tỉnh Quảng Trị; nơi cư trú: Khu phố B, Phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Thợ sửa máy vi tính; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật Giáo; con ông Nguyễn Đức D, sinh năm 1952 và bà Phạm Thị C, sinh năm 1954; gia đình có 05 chị em, bị cáo là con út; vợ: Lương Thị H (đã ly hôn); con: Chưa có; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 16/3/2015, bị Công an thành phố Đông Hà xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh nhau” với mức hình phạt tiền 750.000 đồng.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/3/2022 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đông Hà cho đến nay.

Các bị cáo đều có mặt tại phiên tòa.

- Những người làm chứng:

+ Anh Lê Khánh Đ, sinh năm 2003; địa chỉ: Khu phố B, Phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đông Hà (trong vụ án khác), có mặt.

+ Anh Nguyễn Phước Bảo V, sinh ngày 22/7/2005; địa chỉ: Khu phố S, Phường M, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

+ Anh Trương Vũ T, sinh năm 2002; địa chỉ: Khu phố H, Phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 06 giờ 30 phút ngày 17/3/2022, Nguyễn B đang ở nhà thì có Nam (không rõ lai lịch, địa chỉ) đến nhà chơi. B hỏi Nam “có biết ai bán ma túy hồng phiến không”, thì Nam trả lời “có”. B đưa 2.500.000 đồng cho Nam nhờ mua ma túy về để bán kiếm lời. Nam cầm tiền đi khoảng 30 phút sau thì quay lại và đưa cho B 01 túi ny lông màu xanh bên trong có chứa 115 viên ma túy hồng phiến (gồm 112 viền màu hồng và 03 viên màu xanh) rồi bỏ đi đâu không rõ. Sau khi có ma túy, B cất giấu toàn bộ số ma túy vào 01 hộp giấy màu hồng kí hiệu MOCKBA VITAMIN E và để tại trên nệm trong phòng ngủ của B.

Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, Lê Khánh Đ (trú tại khu phố 7, Phường 5, thành phố Đông Hà) và Nguyễn Phước Bảo V (sinh ngày 22/7/2005, trú tại khu phố 8, Phường 1, thành phố Đông Hà) đến nhà B chơi và ăn uống. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, có Nguyễn Đức K cùng đến tham gia nhậu. Trong lúc đang ngồi nhậu thì K hỏi mua 02 viên ma túy hồng phiến để sử dụng một mình nhưng B không bán mà vào phòng ngủ lấy ra 03 viên ma túy mời K, Đ cùng sử dụng (riêng V không sử dụng ma túy mà ngồi chơi game tại phòng). K đã chủ động làm chai nhựa trên thân chai có đục lỗ gắn tờ tiền 2000 đồng và 01 mảnh giấy kẽm rồi để 03 viên ma túy lên mảnh giấy kẽm để sử dụng. Sau khi K sử dụng, B và Đ cũng lần lượt sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng xong, B vào phòng ngủ còn Đ, K và V tiếp tục ngồi chơi ở phòng khách.

Đến khoảng 14 giờ 15 phút cùng ngày, Trương Vũ T (trú tại khu phố 3, Phường 5, thành phố Đông Hà) chở Nguyễn Huỳnh Văn Q (trú tại khu phố 3, Phường 5, thành phố Đông Hà) đến nhà B gặp Đ (để lấy điện thoại mà T đã cho Đ mượn trước đó) thì gặp Đ, V, K đang ngồi ở phòng khách nên T và Q cùng ngồi xuống chơi. Tại đây, Q hỏi có ai góp tiền chơi ma túy không, nhưng do không có ai trả lời nên Q đã bỏ tiền 200.000 đông ra để mua ma túy hồng phiến mời cả nhóm cùng sử dụng. Q đưa 200.000 đồng cho K rồi nhờ K cầm tiền vào phòng ngủ của B để hỏi mua 200.000 đồng ma túy hồng phiến. Tại phòng ngủ của B, K nói với B bán cho Qúy 200.000 đồng, nghe K nói vậy thì B liền đồng ý và bán cho K 06 viên ma túy hồng phiến (B hưởng lợi 10.000đ/01 viên). Sau khi mua được ma túy, K đưa ma túy ra để cho Đ, V, T, Q cùng sử dụng tại phòng khách nhà của B. Đ chủ động làm 02 “xẻng” để làm dụng cụ sử dụng ma túy. Sau đó, K, Đ, V, T, Q lần lượt thay nhau sử dụng hết 06 viên ma túy trên. Khi sử dụng xong thì Q, Đ, V và T ra về, còn K ở lại nhà B. Việc K, Q, Đ, V và T sử dụng ma túy B không biết. Đến 19 giờ cùng ngày, cơ quan Công an tiến hành kiểm tra hành chính nơi ở của B, phát hiện trên nệm trong phòng ngủ của B có 01 hộp giấy màu hồng bên trong có chứa 01 túi ny lông màu xanh, bên trong túi ni lông có chứa 103 viên màu hồng và 03 viên màu xanh nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

* Vật chứng thu giữ gồm:

+ 01 hộp giấy màu hồng có kích thước (15x10x6)cm có ký hiệu MOCKBA VITAMIN E;

+ 01 túi ny lông màu xanh có kích thước (9,5 x 6,5)cm;

+106 viên nén trong đó có 103 viên nén hình trụ tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY và 03 viên nén hình trụ tròn, màu xanh, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ A;

+ 01 tờ tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam mệnh giá 200.000 đồng;

+ 03 mảnh giấy bạc hình xẻng bị cháy xém một đầu;

+01 ly thủy tinh kích thước 8,5cm đường kính miệng 7,5cm;

+ 01 ly thủy tinh kích thước 4,5cm, đường kính miệng 3,7cm;

+ 01 dĩa sứ màu trắng đường kính 20,5cm;

+ 01 chai nhựa trên thân chai có chữ Number 1, có chứa dung dịch màu đỏ;

+01 chai nhựa có đục một lỗ, gắn 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng;

+ 01 điện thoại di động SAMSUNG, màu xám, màn hình cảm ứng, số điện thoại 0779476X, số IMEI 1: 353415087678127/01, số IMEI 2: 353416087678125/01 đã qua sử dụng (thu giữ của Nguyễn B);

+ 01 bật lửa màu trắng xanh có in chữ Hoa Việt.

* Kết luận giám định: Tại bản Kết luận giám định số 354/KLGĐ ngày 24/3/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị đã kết luận:

- 103 viên nén hình trụ tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY, được niêm phong trong phong trong túi ni lông, mã số NS4 2201997 gửi giám định có khối lượng 9,1031 gam là ma túy loại Methamphetamine.

- 03 viên nén hình trụ tròn, màu xanh, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ A, được niêm phong trong phong trong túi ni lông, mã số NS4 2201997 gửi giám định có khối lượng 0,2931 gam. Không tìm thấy chất ma túy trong các viên nén màu xanh.

Tại bản Cáo trạng số: 83/CT-VKSĐH ngày 01/8/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà đã truy tố bị cáo Nguyễn B về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự; bị cáo Nguyễn Huỳnh Văn Q và Nguyễn Đức K về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại các điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn B từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; các điểm s, r khoản 1 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn B từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Căn cứ khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Nguyễn B phải chấp hành hình phạt chung của hai tội, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 17/3/2022.

- Căn cứ các điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Huỳnh Văn Q từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 21/4/2022.

- Căn cứ các điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức K từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 28/3/2022.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự,

+ Tịch thu, tiêu hủy: Số ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong các phong bì ký hiệu PS3A 077845 và PS3A 103684, có đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị; 01 hộp giấy màu hồng có kích thước (15x10x6)cm có ký hiệu MOCKBA VITAMIN E; 01 túi ny lông màu xanh có kích thước (9,5 x 6,5)cm; 03 mảnh giấy bạc hình xẻng bị cháy xém một đầu; 01 ly thủy tinh kích thước 8,5cm đường kính miệng 7,5cm; 01 ly thủy tinh kích thước 4,5cm, đường kính miệng 3,7cm; 01 dĩa sứ màu trắng đường kính 20,5cm; 01 chai nhựa cao 23cm, trên thân chai có chữ Number 1, có chứa dung dịch màu đỏ; 01 chai nhựa trong suốt có nắp đậy, cao 20cm, đường kính 2,5cm, vị trí cách đáy chai 5,7cm có đục 01 lỗ và 01 bật lửa màu trắng xanh có in chữ Hoa Việt, kích thước (7,7 x 02)cm.

+ Tịch thu, suy quỹ nhà nước 01 tờ tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam mệnh giá 200.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng.

+ Đề nghị Hội đồng xét xử nghiên cứu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động SAMSUNG, màu xám, màn hình cảm ứng, số điện thoại 0779476X, số IMEI 1: 353415087678127/01, số IMEI 2: 353416087678125/01.

Bị cáo trình bày lời nói sau cùng:

- Bị cáo Nguyễn B trình bày: Bị cáo đã nhận thức được tội lỗi của mình, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo sớm trở về làm lại cuộc đời.

- Bị cáo Nguyễn Huỳnh Văn Q trình bày: Bị cáo đã nhận thấy sai trái của mình, bị cáo đang còn mẹ ở nhà một mình, mong Hội đồng xét xử tạo điều kiện cho bị cáo sớm trở về giúp đỡ mẹ của mình.

- Bị cáo Nguyễn Đức K trình bày: Trong thời gian tạm giam, bị cáo đã nhận thức được việc làm sai trái của mình, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp các các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố và xét xử:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đông Hà, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng. Tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở khẳng định:

[2.1]. Đối với hành vi của bị cáo Nguyễn B: Ngày 17/3/2022, sau khi mua được 115 viên ma túy hồng phiến với giá 2.500.000 đồng, bị cáo Nguyễn B đã có hành vi sử dụng địa điểm là nhà của mình tại khu phố 4, Phường 2, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị và cung cấp 03 viên ma túy để tổ chức sử dụng cùng với Nguyễn Đức K và Lê Khánh Đ. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” với tình tiết định khung “đối với 02 người trở lên” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự.

Ngoài ra, khoảng 14 giờ 15 phút cùng ngày 17/3/2022, bị cáo Nguyễn B đã thực hiện hành vi bán cho Nguyễn Huỳnh Văn Q 06 viên ma túy hồng phiến với giá 200.000 đồng (B hưởng lợi 30.000 đồng). Còn lại 106 viên ma túy (gồm 103 viên màu hồng và 03 viên màu xanh) B cất giấu với mục đích bán lại kiếm lời nhưng chưa kịp bán thì đã bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ. Tại bản Kết luận giám định số 354/KLGĐ ngày 24/3/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị đã kết luận: 103 viên nén hình trụ tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY, được niêm phong trong phong trong túi ni lông, mã số NS4 2201997 gửi giám định có khối lượng 9,1031 gam là ma túy loại Methamphetamine. Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[2.2]. Đối với hành vi của bị cáo Nguyễn Huỳnh Văn Q và bị cáo Nguyễn Đức K: Ngày 17/3/2022, tại khu phố B, Phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị (nhà của bị cáo Nguyễn B), các bị cáo Nguyễn Huỳnh Văn Q và Nguyễn Đức K đã có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý cùng với Lê Khánh Đ, Trương Vũ T, Nguyễn Phước Bảo V, trong đó có Nguyễn Phước Bảo V là người chưa đủ 18 tuổi. Như vậy, hành vi của các bị cáo Q và K đã đủ yêu cấu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” với các tình tiết định khung “đối với 02 người trở lên” “đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi” được quy định tại các điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự.

Hành vi của các bị cáo Q và K mang tính đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Q là người khởi xướng, cầm đầu, chủ động bỏ ra số tiền 200.000 đồng để nhờ Nguyễn Đức K mua 06 viên ma tuý hồng phiến của Nguyễn B và cung cấp ma tuý để sử dụng cùng với Lê Khánh Đ, Trương Vũ T và Nguyễn Phước Bảo V. Bị cáo Nguyễn Đức K là người giữ vai trò giúp sức, khi được Q nhờ mua giúp ma tuý thì K đã đồng ý và cầm tiền mua 06 viên ma tuý của Nguyễn B để đưa cho Q để Q cung cấp cho Đ, T và V cùng sử dụng. Do đó, khi lượng hình cần xem xét đến vai trò của từng bị cáo trong vụ án.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” và Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương và tâm lý hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đều là người có tuổi đời còn trẻ, có sức khỏe, lẽ ra các bị cáo phải tu dưỡng rèn luyện, làm những công việc có ích cho gia đình và xã hội; nhưng ngược lại các bị cáo lại sử dụng ma túy rồi thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần phải xử phạt các bị cáo với mức hình phạt nghiêm khắc và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục, đồng thời góp phần vào công tác phòng, chống và đẩy lùi tội phạm, đặc biệt là tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đông Hà.

- Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội.

Riêng bị cáo Nguyễn B đã tự nguyện khai báo về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội tự thú” quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và cần áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự để xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” cho bị cáo Nguyễn B.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Nguyễn B phải chấp hành hình phạt chung của hai tội.

Tính đến ngày xét xử sơ thẩm thời hạn tạm giam đối với các bị cáo còn dưới 45 ngày nên cần phải ban hành quyết định tạm giam mới để đảm bảo cho việc thi hành án.

[4] Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ:

- Đối với số ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong các phong bì ký hiệu PS3A 077845 và PS3A 103684, có đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị là chất cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 hộp giấy màu hồng có kích thước (15x10x6)cm có ký hiệu MOCKBA VITAMIN E; 01 túi ny lông màu xanh có kích thước (9,5 x 6,5)cm;

03 mảnh giấy bạc hình xẻng bị cháy xém một đầu; 01 ly thủy tinh kích thước 8,5cm đường kính miệng 7,5cm; 01 ly thủy tinh kích thước 4,5cm, đường kính miệng 3,7cm; 01 dĩa sứ màu trắng đường kính 20,5cm; 01 chai nhựa cao 23cm, trên thân chai có chữ Number 1, có chứa dung dịch màu đỏ; 01 chai nhựa trong suốt có nắp đậy, cao 20cm, đường kính 2,5cm, vị trí cách đáy chai 5,7cm có đục 01 lỗ và 01 bật lửa màu trắng xanh có in chữ Hoa Việt, kích thước (7,7 x 02)cm. Đây là những công cụ các bị cáo thực hiện hành phạm tội và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 tờ tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam mệnh giá 200.000 đồng là số tiền bị cáo B thu lợi bất chính từ hành vi mua bán trái phép chất ma túy và 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng do bị cáo K sử dụng để làm công cụ sử dụng ma túy. Do đó, cần tịch thu, sung quỹ nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động SAMSUNG, màu xám, màn hình cảm ứng, số điện thoại 0779476X, số IMEI 1: 353415087678127/01, số IMEI 2:

353416087678125/01 đã qua sử dụng, là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của bị cáo B, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[5] Về vấn đề khác:

- Đối với Trương Vũ T, Nguyễn Phước Bảo V chỉ là người được mời sử dụng ma túy (người thụ hưởng), không được bàn bạc trước, không góp tiền với mục đích để mua ma túy hay có bất cứ hành vi gì có liên quan đến việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nên không đồng phạm.

- Đối với Nguyễn Đức K, mặc dù có làm dụng cụ sử dụng 03 viên ma túy do B cung cấp (đục lỗ chai nhựa, gấp tờ tiền, mảnh giấy kẽm); Lê Khánh Đ làm 02 “xẻng” để sử dụng 06 viên ma túy do Q cung cấp, nhưng hành vi này của K và Đ không có sự chuẩn bị từ trước, không theo sự phân công, điều hành của ai. Do đó, Nguyễn Đức K không đồng phạm với Nguyễn Văn B về hành vi tổ chức sử dụng trái phép 03 viên ma túy do B cung cấp; Lê Khánh Đ không đồng phạm với Nguyễn Huỳnh Văn Q, Nguyễn Đức K về hành vi tổ chức sử dụng trái phép 06 viên ma túy hồng phiến do Q cung cấp. Ngày 05/7/2022, Cơ quan Công an thành phố Đông Hà đã quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng nêu trên về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” là có cơ sở.

- Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã áp dụng các biện pháp nghiệp vụ nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của người đàn ông tên Nam được B nhờ mua 115 viên ma túy hồng phiến nên không có cơ sở xử lý.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn B (tên gọi khác: Lỳ) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo Nguyễn Huỳnh Văn Q (tên gọi khác: Bun) và bị cáo Nguyễn Đức K phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn B 08 (Tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; các điểm s, r khoản 1 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn B 06 (Sáu) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Căn cứ khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Nguyễn B phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là: 14 (Mười bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 17/3/2022.

- Căn cứ các điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Huỳnh Văn Q 08 (Tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 21/4/2022.

- Căn cứ các điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức K 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 28/3/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên xử:

- Tịch thu, tiêu hủy: Số ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì ký hiệu PS3A 077845 và PS3A 103684, có đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị; 01 hộp giấy màu hồng có kích thước (15x10x6)cm có ký hiệu MOCKBA VITAMIN E; 01 túi ny lông màu xanh có kích thước (9,5 x 6,5)cm; 03 mảnh giấy bạc hình xẻng bị cháy xém một đầu; 01 ly thủy tinh kích thước 8,5cm đường kính miệng 7,5cm; 01 ly thủy tinh kích thước 4,5cm, đường kính miệng 3,7cm; 01 dĩa sứ màu trắng đường kính 20,5cm; 01 chai nhựa cao 23cm, trên thân chai có chữ Number 1, có chứa dung dịch màu đỏ; 01 chai nhựa trong suốt có nắp đậy, cao 20cm, đường kính 2,5cm, vị trí cách đáy chai 5,7cm có đục 01 lỗ và 01 bật lửa màu trắng xanh có in chữ Hoa Việt, kích thước (7,7 x 02)cm.

- Tịch thu, suy quỹ nhà nước 01 tờ tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam mệnh giá 200.000 đồng và 01 tờ tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam có mệnh giá 2.000 đồng.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn B 01 điện thoại di động SAMSUNG, màu xám, màn hình cảm ứng, số điện thoại 0779476X, số IMEI 1: 353415087678127/01, số IMEI 2: 353416087678125/01 nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Các vật chứng trên hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03/8/2022, giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đông Hà và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, tuyên xử:

Buộc các bị cáo Nguyễn B, Nguyễn Huỳnh Văn Q và Nguyễn Đức K, mỗi bị cáo phải chịu số tiền 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 86/2022/HS-ST

Số hiệu:86/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;