Bản án 80/2023/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 80/2023/HS-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 69/2023/HSST ngày 12 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Lê Phan T, sinh ngày 14/8/1994 tại Đà Nẵng; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: xx đường N, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng; Chỗ ở: Phòng 3YX, đường B, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Nhân viên kỹ thuật; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Ân T và và Phan Thị Thùy T; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 30/5/2023. Có mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Trần Thị Thu H, sinh năm 1989; Trú tại: đườngN, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ ngày 30/5/2023, tại khu vực trước số nhà xx đường U, thuộc tổ yy, phường M, quận N, thành phố Đà Nẵng, Đồn Biên phòng Non Nước – Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng thành phố Đà Nẵng bắt quả tang Lê Phan T có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Thu giữ của Lê Phan T:

+ 01 gói nilong màu đen (KT (26 x 14,6)cm bên trong có chứa 13 búp thảo mộc khô và một số vụn thảo mộc khô (trong 01 túi đeo chéo màu đen trước ngực T; được niêm phong ký hiệu A01);

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10 plus, màu xanh; gắn sim số 03553992xx;

+ 01 xe mô tô hiệu Honda Dream, BKS 50A1-43xx;

+ 6.397.000 đồng; 01 Căn cước công dân mang tên Lê Phan T.

Đến 21 giờ 30 phút cùng ngày, tiến hành khám xét khẩn cấp phòng trọ của Lê Phan T tại 3YX, đường B, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng, lực lượng biên phòng thu giữ:

+ 01 gói nilong màu đen (KT (20 x 30)cm, bên trong có chứa các búp thảo mộc khô màu xanh; 01 gói nilong đen (có zip đóng mở, KT (26x13)cm, bên trong có chứa các búp thảo mộc khô màu nâu, trong tủ quần áo);

+ 01 hộp bánh vỏ sắt hiệu PieoucHe, KT (10 x 18)cm, bên trong có chứa các búp thảo mộc khô màu xanh;

(02 gói nilong và 01 hộp sắt có chứa các búp thảo mộc khô màu xanh, màu nâu được niêm phong ký hiệu A02);

+ 01 cân điện tử hiệu Digital scale màu xanh sẫm; 01 cối xay cần sa bằng sắt màu trắng bạc, KT (05 x 02)cm; 01 tập giấy dùng để cuốn điếu cần sa, màu vàng, hiệu Raw đã qua sử dụng;

Quá trình điều tra Lê Phan T khai nhận: Vào ngày 30/4/2023, T sử dụng tài khoản mạng xã hội Telegram đăng ký sim điện thoại số 09054656xx liên lạc với số tài khoản “84345223X” để hỏi mua khoảng 50 gam ma túy loại cần sa với giá 2.000.000đ nhằm mục đích sử dụng và bán lại để kiếm lời. T đã sử dụng và bán cho nhiều người nhưng không nhớ rõ thời gian, địa điểm hết khoảng 30 gam, còn lại 20gam T cất giấu tại Phòng 3YX, đường B, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng. Đến khoảng ngày 20/5/2023, T tiếp tục liên hệ qua mạng xã hội Telgram với tài khoản số “84345223X” mua thêm 80 gam cần sa với giá 7.500.000đ, T trả trước 5.000.000đ đồng và nợ lại 2.500.000đ, người bán nhắn số tài khoản ngân hàng cho T (không nhớ số tài khoản). Sau đó, T đến ngân hàng (không rõ tên, địa chỉ) trên đường N nộp vào số tài khoản của người bán 5.000.000đ. Khoảng 13 giờ ngày 23/5/2023, T điều khiển xe mô tô hiệu Honda Dream BKS 50A1-43xx đến khu vực đường H, quận S, thành phố Đà Nẵng để nhận ma túy từ một nam thanh niên giao hàng (không rõ lai lịch, không rõ BKS xe). T đem số ma túy loại cần sa vừa mua được về phòng trọ tại Phòng 3YX, đường B, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng mở ra kiểm tra thì thấy 01 túi zip màu đen chứa ma túy loại cần sa nên đã lấy 20 gam cần sa còn lại trước đó bỏ vào túi zip, sau đó trích một ít bỏ trong gói nilong màu trắng, một ít bỏ trong hộp bánh, còn lại để trong túi zip màu đen cất giấu trong tủ quần áo.

Đến ngày 27/5/2023, T mua 01 tệp giấy quấn tại một siêu thị trên P (không nhớ rõ địa chỉ) để quấn cần sa thành điếu và bán lại cho nhiều người nhưng không nhớ rõ thời gian, địa điểm và đối tượng mua. Trong đó, T nhớ được 02 lần cụ thể như sau:

+ Lần 1: Khoảng 02 giờ ngày 30/5/2023, T lấy cần sa trong túi zip màu đen, trích ra một ít cân đủ 01 gam, sau đó cho vào cối xay rồi lấy tệp giấy quấn thành 03 điếu dạng điếu thuốc lá mang đi bán cho một nam thanh niên có tên zalo “Nguyễn Phúc Kh” với giá 400.000đ tại khu vực vòng xoay đường X, quận H, thành phố Đà Nẵng. T khai nhận đã bán cần sa cho Kh nhiều lần nhưng chỉ nhớ 01 lần như trên.

+ Lần 2: Khoảng 15 giờ ngày 30/5/2023, T đang ở tại Phòng 302 thì có một nam thanh niên (không rõ lai lịch) sử dụng tài khoản mạng xã hội Facebook “Dương Đ” nhắn tin đến Facebook “Phan T” của T hỏi mua 05 gam ma túy cần sa thì T đồng ý bán với giá 2.000.000đ. “Dương Đ” hẹn giao dịch tại khu vực cuối đường U, phường M, quận N, thành phố Đà Nẵng. Tiếp đó, T lấy ma túy cần sa ra cân đủ trọng lượng rồi bỏ vào 01 gói nilong màu đen cất giấu trong túi đeo chéo màu đen, đeo trước ngực rồi điều khiển xe mô tô từ phòng trọ đến điểm hẹn để giao dịch. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, khi đến khu vực trước số nhà xx đường U, phường M, quận N, thành phố Đà Nẵng đứng đợi người mua đến để bán ma túy thì bị Đồn Biên phòng Non Nước – Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng thành phố Đà Nẵng phát hiện, bắt quả tang.

* Theo Kết luận giám định số 466/KL-KTHS ngày 02/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng, kết luận: Thảo mộc khô trong các mẫu niêm phong ký Hiệu A01, A02 gửi giám định là ma túy, loại Cần sa; khối lượng mẫu A01: 5,64 gam và A02: 102,45 gam.

Tại bản Cáo trạng số 71/CT-VKS-NHS ngày 11 tháng 9 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Lê Phan T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 07 đến 08 năm tù, truy thu số tiền 5.000.000đ bị cáo thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy để sung vào công quỹ Nhà nước. Về vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy đối với các vật chứng là ma túy, bao vỏ hoàn trả sau giám định, cân điện tử, cối xay, giấy quấn, túi đeo thu giữ của bị cáo; Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Samsung Galaxy S10 và số tiền 400.000đ; Tiếp tục tạm giữ số tiền 6.397.000đ thu giữ của bị cáo để đảm bảo thi hành án. Trả lại cho bị cáo 01 căn cước công dân mang tên Lê Phan T Bị cáo Lê Phan T thừa nhận Cáo trạng truy tố đối với bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng tội nên không có ý kiến gì về tội danh cũng như thủ tục tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét bị cáo phạm tội lần đầu để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Trần Thị Thu H vắng mặt nhưng đã có lời khai tại hồ sơ vụ án phù hợp với lời khai của bị cáo cũng như các tài liệu chứng cứ do cơ quan tiến hành tố tụng đã thu thập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm vấn công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại gì. Tại phiên tòa bị cáo cũng thống nhất về tội danh, thủ tục tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa là phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, do đó Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định: Trong khoảng thời gian từ 30/4/2023 đến ngày 30/5/2023 Lê Phan T đã 02 lần thông qua mạng xã hội Telegram mua tổng cộng 130gam ma túy loại cần sa từ đối tượng không xác định lai lịch về một phần để sử dụng và bán lại nhiều lần cho nhiều người. Trong đó xác định trong ngày 30/5/2023 bán 02 lần, lần thứ nhất vào lúc 02 giờ, bán cho một nam thanh niên có tên tài khoản mạng xã hội Zalo “Nguyễn Phúc Kh” 01 gam với giá 400.000 đồng, lần thứ hai vào lúc 17 giờ khi đang đi bán 5,64 gam cho người có tài khoản mạng xã hội Facebook “Dương Đ” với giá 2.000.000 đồng thì bị bắt quả tang. Số ma túy còn lại chưa kịp bán thì bị thu giữ tại nơi ở là 102,45 gam. Tổng lượng ma túy thu giữ của bị cáo là 108,09 gam loại cần sa. Do đó Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định Cáo trạng số 71/CT–VKS-NHS ngày 11 tháng 9 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội.

[3] Xét tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, chỉ trong vòng 01 tháng từ 30/4/2023 đến 30/5/2023, thông qua mạng xã hội bị cáo đã mua 130gam ma túy loại cần sa sau đó quấn thành điếu bán cho nhiều đối tượng nhưng không nhớ cụ thể. Chỉ riêng trong ngày 30/5/2023 bị cáo đã 02 lần bán ma túy cho con nghiện, số tiền giao dịch mỗi lần từ vài trăm đến vài triệu đồng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội. Do đó đối với bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm, cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục đồng thời làm gương cho người khác.

Ngoài ra, thông qua việc mua bán trái phép chất ma túy, Lê Phan T đã thu lợi bất chính số tiền 5.000.000đ do đó cần truy thu số tiền này để sung vào công quỹ Nhà nước.

[4] Về các tình tiết giảm nhẹ: Bản thân bị cáo là người có nhân thân tốt, quá trình điều tra và tại phiên tòa có thái độ khai báo thành khẩn, ông bà nội bị cáo đều là người có công cách mạng và được Nhà nước tặng tưởng Huân chương kháng chiến. Do đó Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm cho bị cáo một phần hình phạt khi lượng hình, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Đối với những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và vấn đề liên quan trong vụ án:

[5.1] Đối với bà Trần Thị Thu H là chủ phòng trọ Phòng 3YX, đường B, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng có cho bị cáo thuê tròng trọ để ở, không biết trước mục đích bị cáo sử dụng địa điểm thuê để làm nơi cất giấu ma túy phục vụ việc phạm tội nên Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không đề cập trách nhiệm hình sự đối với bà H là phù hợp, Hội đồng xét xử không xem xét. Giao dịch hợp đồng thuê nhà giữa các bên được điều chỉnh theo quy định của pháp luật dân sự, nếu phát sinh tranh chấp thì có quyền khởi kiện nhau bằng vụ án khác.

[5.2] Đối với đối tượng có tài khoản Telegram “845223X” có bán ma túy cho bị cáo; các đối tượng có tài khoản Facebook “Dương Đ”, tài khoản zalo “Nguyễn Phúc Kh” có hành vi mua ma túy của bị cáo, quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan CSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau, phạm vi vụ án này Hội đồng xét xử không đề cập.

[5.3] Ngoài hành vi mua bán trái phép chất ma túy, Lê Phan T còn có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Cơ quan Công an quận Ngũ hành Sơn đã xử phạt hành chính là phù hợp, Lê Phan T cũng không có ý kiến khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

[6.1] Đối với các vật chứng gồm: 01 (một) bì giấy niêm phong ký hiệu A01 và 01 (một) hộp giấy niêm phong ký hiệu A02 là mẫu giám định hoàn trả kèm theo kết luận giám định số 466/KL-KTHS ngày 02/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng; 01 (Một) tệp giấy quấn hiệu Raw; 01 cân điện tử hiệu Digital scale màu xanh sẫm; 01 cối xay cần sa bằng sắt màu trắng bạc (KT 05cm x 02cm); 01 (một) túi đeo màu đen là ma túy, dụng cụ cân, quấn, xay, chứa đựng ma túy xét không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6.2] Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10, màu xanh, số imeil: 352695101266345 (Niêm phong ký hiệu A03) là phương tiện bị cáo sử dụng liên lạc mua bán ma túy nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

[6.3] Đối với số tiền 6.397.000đ thu giữ của Lê Phan T trong đó có 400.000đ bị cáo vừa bán ma túy cho đối tượng có tên zalo “Nguyễn Phúc Kh” nên cần tịch thu sung công quỹ số tiền 400.000đ trong số tiền này. Số tiền còn lại 5.997.000đ bị cáo khai là tiền bị cáo mới nhận lương, không liên quan đến việc mua bán trái phép chất ma túy nên cần tuyên trả lại cho bị cáo. Tuy nhiên trong vụ án này bị cáo phải có nghĩa vụ nộp lại số tiền thu lợi bất chính 5.000.000đ để sung vào công quỹ Nhà nước và phải chịu án phí hình sự nên cần tiếp tục tạm giữ số tiền 5.997.000đ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án của bị cáo (Số còn dư sau khi thi hành tất cả các nghĩa vụ của bị cáo sẽ được hoàn trả trong giai đoạn thi hành án).

[6.4] Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda Dream, BKS 50A1-43xx (SK: C100M- 0027120, SM: C100ME-0027120) bị cáo khai mua lại của người khác nhưng hiện chưa xác minh được thông tin chủ sở hữu do đó cần giao Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn tiếp tục điều tra xử lý sau.

[6.5] Đối với 01 Căn cước công dân mang tên Lê Phan T là giấy tờ tùy thân của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên cần tuyên trả lại cho bị cáo.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Phan T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ vào: điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Lê Phan T 07 (Bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam – 30/5/2023.

Truy thu, buộc bị cáo nộp lại số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy để sung vào công quỹ Nhà nước.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

* Tịch thu tiêu hủy vật chứng gồm:

- 01 (một) bì giấy niêm phong ký hiệu A01 và 01 (một) hộp giấy niêm phong ký hiệu A02 là mẫu giám định hoàn trả kèm theo kết luận giám định số 466/KL-KTHS ngày 02/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng;

- 01 (Một) tệp giấy quấn hiệu Raw;

- 01 cân điện tử hiệu Digital scale màu xanh sẫm;

- 01 cối xay cần sa bằng sắt màu trắng bạc (KT 05cm x 02cm);

- 01 (một) túi đeo màu đen;

* Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10, màu xanh, số imeil: 352695101266345 (Niêm phong ký hiệu A03) và số tiền 400.000đ trong tổng số tiền 6.397.000đ thu giữ của Lê Phan T.

* Tiếp tục tạm giữ số tiền 5.997.000đ trong tổng số tiền 6.397.000đ thu giữ của Lê Phan T (Sau khi đã sung công quỹ 400.000đ) để đảm bảo thi hành án.

* Trả lại cho bị cáo Lê Phan T 01 Căn cước công dân mang tên Lê Phan T;

(Vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/9/2023 giữa Cơ quan CSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn và Chi cục thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Riêng đối với số tiền 6.397.000đ hiện đang tạm giữ tại tài khoản số 3949.0.1055141.X của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn mở tại Kho bạc Nhà nước quận Ngũ Hành Sơn theo ủy nhiệm chi số 34 ngày 19/9/2023).

* Giao Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng tiếp tục tạm giữ 01 xe mô tô hiệu Honda Dream, BKS 50A1-43xx (SK: C100M- 0027120, SM: C100ME-0027120) đã thu giữ theo biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 30/5/2023 và bàn giao theo biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 06/6/2023 giữa bên giao là Đồn Biên phòng Non Nước với bên nhận là Cơ quan CSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn để tiếp tục điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Buộc bị cáo Lê Phan T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm, báo cho bị cáo có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay.

Riêng người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

97
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 80/2023/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:80/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;