Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 80/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÀU BÀNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 80/2022/HS-ST NGÀY 16/08/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 48/2022/TLST- HS ngày 17 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2022/QĐXXST–HS ngày 05 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Trung Đ, sinh năm 1995 tại An Giang. Nơi Đ ký hộ khẩu thường trú: ấp H, xã A, thị xã C, tỉnh An Giang; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn B và bà Nguyễn Thị T; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 06-01-2022 và tạm giam cho đến nay; có mặt.

Người làm chứng: Nguyễn Thanh S; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 19 giờ 40 phút ngày 06-01-2022, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an huyện Bàu Bàng phối hợp với Công an thị trấn Lai Uyên kiểm tra hành chính phòng trọ số X lô Y đường Z thuộc khu phố B, thị trấn U, huyện B, tỉnh Bình Dương nơi Lê Trung Đ thuê ở. Lúc này, Lê Trung Đ đang ở trong phòng. Tại đây, lực lượng Công an phát hiện 01 gói nylon hàn kín miệng kéo dính bên trong chứa chất màu trắng dạng tinh thể trong túi áo khoác Jean màu xám bên trái của Lê Trung Đ đang treo bên cạnh cửa ra vào; 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa chất màu trắng dạng tinh thể bên trong hộp nhựa tròn lớn và 06 gói nylon hàn kín bên trong chứa chất màu trắng dạng tinh thể bên trong hộp nhựa tròn nhỏ để trên kệ bếp. Lê Trung Đ khai nhận chất màu trắng dạng tinh thể là ma túy đá nên lực lượng Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Trung Đ, thu giữ tang vật gồm: 01 gói nylon miệng kéo dính bên trong chứa chất màu trắng dạng tinh thể (M1); 07 gói nylon hàn kín bên trong chứa chất màu trắng dạng tinh thể (M2); 02 ống thủy tinh (nỏ); 01 kéo kim loại; 01 bình nhựa; 03 bịch nylon; 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh đen.

Quá trình điều tra, Lê Trung Đ khai nhận: Ngày 04-01-2022, Đ đi đến khu vực phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương mua 01 gói nylon hàn kín chứa ma túy đá với giá là 3.000.000 đồng của người đàn ông (không rõ lai lịch cụ thể). Sau đó, Đ mang mua túy về phân chia thành 08 gói nylon chứa ma túy đá cất giấu với mục đích sử dụng và phân ra bán cho các đối tượng nghiện ma túy trên địa bàn huyện Bàu Bàng để kiếm lời. Đ bán ma túy đá cho Nguyễn Thanh S được 04 lần tại phòng trọ của Đ thuộc khu phố B, thị trấn U, huyện B, tỉnh Bình Dương (trong đó 03 lần, mỗi lần bán 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng nhưng không nhớ rõ thời gian cụ thể; 01 lần vào ngày 04-01-2022, bán 01 gói ma túy đá với giá 700.000 đồng). Ngoài ra, Đ còn bán 01 gói ma túy đá cho đối tượng tên T (không rõ lai lịch cụ thể) tại phòng trọ của Đ, nhưng không nhớ rõ số tiền, thời gian cụ thể.

Ngày 07-01-2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bàu Bàng ban hành Quyết định trưng cầu giám định số 11 trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương giám định thành phần và trọng lượng chất tinh thể màu trắng đã thu giữ của Lê Trung Đ. Theo Kết luận giám định số 65/MT-PC09 ngày 12-01-2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng, gửi giám định là ma tuý, có khối lượng: 3,7068 gam (M1), 1,2572 gam (M2), loại Methamphetamine quy định tại Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 quy định các danh Mục chất ma túy và tiền chất của Chính phủ. Mẫu vật sau giám định được niêm phong, khối lượng: 3,5954 gam (M1), 1,2158 gam (M2).

Cáo trạng số 53/CT–VKSBB ngày 16-6-2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng truy tố bị cáo Lê Trung Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lê Trung Đ mức hình phạt từ 08 (tám) năm đến 09 (chín) năm tù.

Về biện pháp tư pháp:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư được niêm phong ghi số 65/PC09 có chữ ký của Lê Trung Đ (người chứng kiến), Nguyễn Đức N (bên nhận), Nguyễn Hoàng N (bên giao - KTHS) và có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Bình Dương bên trong chứa 3,5954 gam (M1); 1,2158 gam (M2) Methamphetamine (theo kết luận giám định) là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành và 02 (hai) ống thủy tinh (nỏ), 01 (một) kéo kim loại, 01 (một) bình nhựa, 03 (ba) bịch nylon là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội.

+ Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh đen, IMEI 1: 864267040136335, IMEI 2: 864267040136327 là công cụ Lê Trung Đ thực hiện hành vi phạm tội.

+ Buộc bị cáo Lê Trung Đ nộp số tiền thu lợi bất chính từ việc mua bán ma túy là 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng) để tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng qua phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và nội dung luận tội.

Tại phiên tòa, bị cáo thống nhất toàn bộ nội dung truy tố, luận tội và không có ý kiến tranh luận.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo biết hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản niêm phong, kết luận giám định cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Đủ cơ sở kết luận: Lúc 19 giờ 40 phút ngày 06-01-2022, tại phòng trọ số X lô Y đường Z thuộc khu phố B, thị trấn U, huyện B, tỉnh Bình Dương nơi Lê Trung Đ thuê ở, Công an huyện Bàu Bàng kiểm tra và phát hiện 4,964 gam ma túy loại Methamphetamine. Quá trình điều tra, bị cáo khai nhận mua ma túy đá của người đàn ông (không rõ lai lịch) ở khu vực phường M, thị xã Bế, tỉnh Bình Dương đem về bán cho Nguyễn Thanh S được 04 lần, đối tượng tên Tài (không rõ lai lịch) được 01 lần trên địa bàn huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương. Do đó, hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Hiện nay, tình hình nghiện hút chất ma túy đang diễn ra phức tạp trong mọi tầng lớp. Tệ nạn này là mối quan tâm của toàn xã hội, một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn này chưa được đẩy lùi chính là có sự tiếp tay của bị cáo. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Căn cứ vào nhân thân, tính chất mức độ phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về biện pháp tư pháp:

+ Đối với 01 (một) bì thư được niêm phong ghi số 65/PC09 có chữ ký của Lê Trung Đ (người chứng kiến), Nguyễn Đức N (bên nhận), Nguyễn Hoàng N (bên giao - KTHS) và có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Bình Dương bên trong chứa 3,5954 gam (M1); 1,2158 gam (M2) Methamphetamine (theo kết luận giám định) là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành và 02 (hai) ống thủy tinh (nỏ), 01 (một) kéo kim loại, 01 (một) bình nhựa, 03 (ba) bịch nylon là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

+ Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh đen, IMEI 1: 864267040136335, IMEI 2: 864267040136327 là công cụ Lê Trung Đ thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

+ Đối với số tiền 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng) là tiền thu lợi bất chính từ việc mua bán ma túy của bị cáo Lê Trung Đ nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017;

Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Các Điều 106, Điều 136, Điều 260, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Lê Trung Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Trung Đ 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06-01-2022.

3. Về biện pháp tư pháp:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư được niêm phong ghi số 65/PC09 có chữ ký của Lê Trung Đ (người chứng kiến), Nguyễn Đức N (bên nhận), Nguyễn Hoàng N (bên giao - KTHS) và có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Bình Dương bên trong chứa 3,5954 gam (M1); 1,2158 gam (M2) Methamphetamine (theo kết luận giám định), 02 (hai) ống thủy tinh (nỏ), 01 (một) kéo kim loại, 01 (một) bình nhựa và 03 (ba) bịch nylon.

+ Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh đen, IMEI 1: 864267040136335, IMEI 2: 864267040136327.

+ Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng) của bị cáo Lê Trung Đ.

(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 17-6-2022 giữa Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng – Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bàu Bàng).

4/ Về án phí: Bị cáo Lê Trung Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 80/2022/HS-ST

Số hiệu:80/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bàu Bàng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;