Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 53/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH THỦY, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 53/2021/HS-ST NGÀY 03/12/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 54/2021/HSST, ngày 10/11/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 112 /2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Xuân T; Giới tính: N; Sinh ngày: 13/4/2001; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: khu 12, xã HX, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa;

Trình độ văn hoá: 5/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do;

Chức vụ Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không.

Bố đẻ: Trần Văn H, sinh năm 1977; Mẹ đẻ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1978;

Anh chị em ruột: có 3 người, bị cáo là con thứ 3; Vợ, con: chưa có;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 07/8/2021 đến ngày 13/8/2021. Hiện đang được áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú tại khu 12, xã HX, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. (Hôm nay có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1- Anh Phùng Đức C, sinh năm 2001 Địa chỉ: Khu Đ, xã HC, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.(Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22 giờ 35 phút ngày 05/8/2021, Công an xã Yên Lương, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc tại khu vực cầu Đập Tràn thuộc khu Soi Trại, xã Yên Lương, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ một số nam thanh niên đang tụ tập, gây mất trật tự công cộng. Công an xã Yên Lương đã tiến hành kiểm tra, phát hiện có hai nam thanh niên là Phùng Đức C, sinh năm 2001, ở Khu Đ, xã HC, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ và Nguyễn Văn N, sinh năm 1999, ở thôn Nước Mát, xã Âu Lâu, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Quá trình kiểm tra Phùng Đức C đã tự nguyện giao nộp 01 túi nilon màu trắng, có khuy bấm, viền màu đỏ, bên trong có chứa 01 phần viên nén màu xanh không rõ hình, C khai là ma túy tổng hợp dạng “Kẹo”, C đã sử dụng trước đó còn lại. Công an xã Yên Lương, huyện Thanh Sơn đã lập biên bản sự việc, thu giữ, niêm phong vật chứng và dẫn giải các đối tượng về trụ sở Công an xã để làm việc, sau đó chuyển đến Công an huyện Thanh Sơn để giải quyết. Xét thấy vụ việc có dấu hiệu tội phạm, ngày 06/8/2021, Công an huyện Thanh Sơn đã ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc hành chính có dấu hiệu của tội phạm đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Sơn để thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Sơn, Phùng Đức C khai nhận:

nguồn gốc số ma túy trên C mua của Trần Xuân T, sinh năm 2001, ở khu 12, xã HX, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ vào ngày 02/8/2021 tại khu 17, xã Đồng Trung, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.

Căn cứ lời khai của Phùng Đức C, ngày 06/8/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Sơn đã triệu tập Trần Xuân T đến làm việc. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Sơn, Trần Xuân T đã tự nguyện giao nộp 01 túi nilon màu trắng, có khuy bấm, viền màu đỏ, bên trong có chứa 05 viên nén đều không rõ hình, trong đó: 01 viên nén màu xanh, 01 viên nén màu cam và 03 viên nén đều màu vàng: (Tr khai 05 viên nén trên là ma túy tổng hợp dạng thuốc lắc, Tr đem theo để nếu gặp ai hỏi mua thì bán kiếm lời). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Sơn đã lập biên bản niêm phong túi nilon có đặc điểm như trên và tạm giữ của Tr 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu xám, bên trong lắp số sim: 0848.636.xxx.

Trên cơ sở vật chứng, tài liệu đã thu giữ của Tr, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Sơn đã ra Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Xuân T tại khu 12, xã HX, huyện Thanh Thủy nhưng không thu giữ, tạm giữ được đồ vật tài liệu gì có liên quan đến ma túy.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Sơn đã ra Quyết định trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ giám định phần viên nén màu xanh không rõ hình thu giữ của Phùng Đức C và 05 viên đã thu giữ của Trần Xuân T.

Tại bản kết luận giám định số 948/KLGĐ ngày 09/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận:

“Mẫu 01 mảnh viên nén màu xanh gửi giám định là ma túy, loại MDMA, có khối lượng là 0,087 gam.

* MDMA là chất ma túy nằm trong Danh mục 1, số thứ tự 27, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Hoàn trả 0,060 gam viên nén màu xanh cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định, được niêm phong, dán kín trong bì giấy có 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán”.

Tại bản kết luận giám định số 951/KLGD ngày 10/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận:

Mu 05 viên nén gửi giám định là ma túy, loại MDMA, có khối lượng là 1,975 gam.

* MDMA là chất ma túy nằm trong Danh mục 1, số thứ tự 27, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Hoàn trả 1,274 gam viên nén cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định, được niêm phong, dán kín trong bì giấy có 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán”.

Kết quả test thử nhanh ma túy bằng nước tiểu của các đối tượng, thể hiện: Phùng Đức C: Dương tính với ma túy; Trần Xuân T: Âm tính với ma túy; Nguyễn Văn N: Âm tính với ma túy.

Căn cứ điểm a, Khoản 5, Điều 163 Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền điều tra vụ án, ngày 11/8/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Sơn đã chuyển toàn bộ hồ sơ, vật chứng và đối tượng Trần Xuân T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy để giải quyết theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Thuỷ, Trần Xuân T đã khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Khoảng hơn 09 giờ ngày 02/8/2021, Trần Xuân T gặp Lê Văn Th sinh năm 1995, ở khu 15, xã HX, huyện Thanh Thuỷ ở gần khu vực nghĩa trang xã HX. Do quen biết với Th từ trước và biết Th có ma túy bán nên Tr muốn mua ma túy về để bán kiềm lời, Tr hỏi Th: “có “Kẹo” không bán cho em một ít?”, Th trả lời: “Đang có sẵn 06 viên kẹo, bán với giá 350.000đ/01viên”. Tr đồng ý mua. Th bảo Tr đưa tiền để Th đi lấy ma tuý nên Tr đã đưa cho Th 2.100.000 đồng, Th cầm tiền rồi bảo Tr đứng đợi Th đi lấy ma túy, Tr vào trong khu vực nghĩa trang xã HX đứng đợi. Khoảng 10 phút sau, Th gọi điện cho Tr qua ứng dụng Messenger nói với Tr: “Anh để ma tuý ở trong bao thuốc lá để dưới trụ cổng của nghĩa trang xã HX, ra đó mà lấy”. Sau đó, Tr đi ra khu vực cổng nghĩa trang xã HX thì thấy bên trái trụ cổng theo hướng đi từ trong nghĩa trang ra có để 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long, Tr cầm bao thuốc lá lên mở ra kiểm tra thì thấy bên trong vỏ bao thuốc lá có 01 túi nilon màu trắng có khuy bấm viền màu đỏ, bên trong túi nilon có 06 viên nén nhiều màu sắc, Tr biết là ma tuý tổng hợp dạng “Kẹo” nên Tr cầm rồi cất giấu vào trong người và đi về nhà.

Khoảng 17 giờ 40 phút ngày 02/8/2021, Tr đang đi chơi tại nhà nghỉ Thu Hà thuộc khu 17, xã Đồng Trung, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ thì nhận được 01 cuộc điện thoại của Phùng Đức C gọi qua ứng dụng Messenger (Tr và C có quen biết nhau từ trước), C hỏi Tr: “có “kẹo, ke” không bán cho một ít?”. Do đang có sẵn ma túy trong người nên Tr bảo có và nói giá là 400.000đ/01 viên. C đồng ý mua 01 viên ma túy. Sau đó, Tr hẹn C đến khu vực cổng nhà nghỉ Thu Hà để giao dịch mua bán ma túy. Khoảng 15 phút sau, C đến điểm hẹn gặp Tr và đưa cho Tr 400.000 đồng, Tr cầm tiền và đưa lại cho C 01 túi nilon màu trắng, có khuy bấm viền màu đỏ, bên trong có 01 viên ma túy tổng hợp dạng viên nén màu xanh. Sau khi giao dịch mua bán ma túy thì Tr tiếp tục ở tại nhà nghỉ Thu Hà chơi. Còn C đi về nhà, cắt viên ma túy thành hai phần, 01 phần C sử dụng bằng hình thức uống vào cơ thể, phần còn lại C cho vào túi nilon cất vào trong người (với mục đích để khi nào cần thì sử dụng). Đến khoảng 22 giờ 35 phút ngày 05/8/2021, Phùng Đức C cùng bạn là Nguyễn Văn N đi chơi ở khu vực cầu Đập Tràn thuộc khu Soi Trại, xã Yên Lương, huyện Thanh Sơn và đã bị Công an xã Yên Lương kiểm tra hành chính và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Đối với Trần Xuân T, sau khi bán cho C 01 viên ma túy, Tr còn lại 05 viên ma túy và cất giấu trong người với mục đích gặp ai hỏi mua thì sẽ bán để kiếm lời. Đến ngày 06/8/2021, khi bị Công an huyện Thanh Sơn triệu tập đến làm việc, điều tra làm rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy với Phùng Đức C, Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Sơn đã thu giữ của Tr 05 viên ma túy còn lại như đã nêu trên.

Căn cứ hành vi phạm tội của Trần Xuân T, ngày 13/8/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Thủy đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Trần Xuân T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Tại Cơ quan điều tra, Tr đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết quả giám định và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 54/CT- VKSTT ngày 09/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Thủy đã truy tố bị cáo Trần Xuân T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

* Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

1- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Xuân T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Xuân T từ 30 đến 36 tháng tù, được trừ ngày bị bắt tạm giữ là 06 ngày (từ ngày 07/8/2021 đến ngày 13/8/2021). Thời hạn tù còn lại là từ 29 tháng 24 ngày tù đến 35 tháng 24 ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3- Về vật chứng của vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy:

+01 (một) bì giấy ghi số 948/KLGĐ có 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán được niêm phong dán kín (bên trong có 0,060 gam viên nén màu xanh còn lại sau giám định cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định). . +01 (một) bì giấy ghi số 951/KLGĐ có 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán được niêm phong dán kín (bên trong có 1,274 gam viên nén cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định);

+ 01sim số 0848.636.xxx.

- Tịch thu bán phát mại sung Ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu xám đã cũ.

- Truy thu số tiền 400.000 đồng là tiền Tr bán ma túy cho Phùng Đức C để sung ngân sách Nhà nước.

(Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Thủy đang quản lý, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/ 11/2021).

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt không có lý do. Kiểm sát viên, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xét thấy người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự để tiếp tục xét xử vụ án là phù hợp.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan sai. Lời khai nhận của bị cáo tại cơ quan điều tra và lời khai tại phiên toà đều thống nhất với nhau, phù hợp với vật chứng đã thu giữ, bản k ết luận giám định cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 18 giờ ngày 02/8/2021, tại khu vực cổng nhà nghỉ Thu Hà ở khu 17, xã Đồng Trung, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ, Trần Xuân T đã có hành vi bán trái phép 01 viên ma túy, loại MDMA cho Phùng Đức C với giá 400.000 đồng nhằm mục đích thu lợi bất chính, C đã sử dụng một phần, phần còn lại bị thu giữ, có khối lượng là 0,087 gam ma túy, loại MDMA.

Ngoài ra, Trần Xuân T còn có hành vi tàng trữ 1,975 gam ma túy, loại MDMA nhằm mục đích để bán kiếm lời.

Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma tuý, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý độc quyền chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi Mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhận thức được tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Ma túy là nguồn gốc phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[2.2]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải do đó bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS.

[2.3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, nhưng theo xác minh của cơ quan điều tra thì bị cáo Trần Xuân T sống cùng bố mẹ đẻ, bị cáo không có tài sản gì ngoài đồ dùng sinh hoạt cá nhân nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[2.4] Đối với Phùng Đức C là đối tượng nghiện ma túy nên đã mua ma túy của Tr để sử dụng. Khi bị kiểm tra hành chính, khối lượng ma túy mà C tàng trữ là 0,087 gam ma túy (loại MDMA) chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, về nhân thân Phùng Đức C chưa bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị kết án về tội phạm có liên quan đến ma túy. Vì vậy, không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với C về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy đã có văn bản đề nghị và tài liệu liên quan chuyển đến Công an huyện Thanh Sơn để xử phạt vi phạm hành chính đối với Phùng Đức C về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với Lê Văn Th quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thuỷ đã triệu tập Lê Văn Th đến làm việc, lấy lời khai về việc Th đã bán ma túy cho Trần Xuân T. Tuy nhiên Th không thừa nhận đã bán ma túy như Tr khai báo. Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất giữa Trần Xuân T với Lê Văn Th nhưng Th vẫn không thừa nhận việc đã bán 06 viên ma túy cho Tr như Tr đã khai báo ở trên. Ngoài lời khai của Tr ra, thì không có tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh nguồn gốc số ma túy trên là do Tr mua của Th. Vì vậy không có căn cứ để xem xét trách nhiệm hình sự đối với Lê Văn Th về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy, nên Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Thủy không đề cập xử lý đối với Lê Văn Th là phù hợp, cần chấp nhận.

Đối với Nguyễn Văn N, là người đi chơi cùng C vào buổi tối ngày 05/8/2021 tại khu vực cầu Đập Tràn thuộc khu Soi Trại, xã Yên Lương, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, sau đó đã bị Công an xã Yên Lương kiểm tra hành chính và thu giữ trên người C 0,087 gam ma túy, loại MDMA. Quá trình điều tra xác định: N không biết gì về việc C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Thủy không đề cập xử lý đối với Nguyễn Văn N là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2.5] Về vật chứng của vụ án:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu xám, bên trong lắp sim số 0848.636.xxx là phương tiện bị cáo Tr sử dụng vào việc giao dịch mua bán ma túy do đó cần tịch thu bán phát mại sung ngân sách nhà nước chiếc điện thoại, tịch thu tiêu hủy sim số 0848.636.xxx.

- 01 (một) bì giấy ghi số 948/KLGĐ có 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán được niêm phong dán kín (bên trong có 0,060 gam viên nén màu xanh còn lại sau giám định cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định) là vật Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng, do đó cần tịch thu, tiêu hủy.

- 01 (một) bì giấy ghi số 951/KLGĐ có 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán được niêm phong dán kín (bên trong có 1,274 gam viên nén cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định) là vật Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng, do đó cần tịch thu, tiêu hủy.

[2.6] Đối với số tiền 400.000 đồng là tiền Tr bán ma túy cho Phùng Đức C là số tiền thu lời bất chính cần truy thu của Tr để sung ngân sách Nhà nước.

[2.7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

[2.8] Đề nghị của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Thủy tại phiên toà là có căn cứ và đúng pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

1- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Xuân T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Xuân T 30 (Ba mươi) tháng tù, được trừ 06 ngày bị bắt tạm giữ ( từ ngày 07/8/2021 đến ngày 13/8/2021). Thời hạn tù còn lại là 29 (Hai mươi chín) tháng 24 (Hai mươi bốn) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3- Về vật chứng của vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy:

+01 (một) bì giấy ghi số 948/KLGĐ có 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán được niêm phong dán kín (bên trong có 0,060 gam viên nén màu xanh còn lại sau giám định cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định).

+01 (một) bì giấy ghi số 951/KLGĐ có 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán được niêm phong dán kín (bên trong có 1,274 gam viên nén cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định);

+ 01sim số 0848.636.xxx.

- Tịch thu bán phát mại sung Ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu xám đã cũ.

- Truy thu số tiền 400.000 đồng là tiền Tr bán ma túy cho Phùng Đức C để sung ngân sách Nhà nước.

(Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Thủy đang quản lý, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/11/2021).

4- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Xuân T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5- Về quyền kháng cáo: : Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, có mặt được quyền kháng cáo Bản án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại trụ sở UBND nơi họ cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 53/2021/HS-ST

Số hiệu:53/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Thuỷ - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;