Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 50/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYÊN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 50/2023/HS-ST NGÀY 10/08/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ. Tòa án nhân dân huyện Thanh S mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45/2023/HS-ST ngày 13 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2023/QĐXXST - HS ngày 28 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lê Trung H (tên gọi khác: Không), sinh ngày 01 tháng 4 năm 2000, tại huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Nơi thường trú: Tổ dân phố Giang L, thị trấn Giang T, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Vân Kiều; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông: Lê Văn Th – SN X6. Con bà: Hà Thị T – SN 1983. Anh, chị, em ruột: Có 02 anh em, bị cáo là lớn nhất, nhỏ nhất sinh năm 2005 Vợ + Con: Bị cáo chưa có. Bố, mẹ bị cáo đang ở tổ thị trấn Giang T, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Tiền án + Tiền sự: Không.

Bị cáo Lê Trung H bị bắt tạm giữ ngày 01/02/2023 đến ngày 10/02/2023 chuyển tạm giam. Hiện nay bị cáo đang thi hành Lệnh tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

2. Họ và tên: Trần Quang Đ (tên gọi khác: Không), sinh ngày 23 tháng 3 năm 1997, tại huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ. Nơi thường trú: Xóm Tân Ph, xã Võ M, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông: Trần Quang S – SN 1958. Con bà: Hoàng Thị X – SN 1960. Anh, chị, em ruột: Có 04 anh, chị em, lớn nhất, sinh năm 1984, bị cáo là con nhỏ nhất Vợ + Con: Bị cáo chưa có. Bố, mẹ bị cáo đang ở xã Võ M, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ Tiền án + Tiền sự: Không.

Lịch sử bản thân: Ngày 17/5/2019 bị can bị Công an huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hủy hoại tài sản, phạt 3.500.000 đồng. Bị cáo Đ chưa thực hiện Quyết định xử phạt hành chính, nhưng Công an huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội không áp dụng biện pháp cưỡng chế xử lý hành chính đối với bị cáo Đ. Tính đến ngày 01/02/2023 khi thực hiện hành vi phạm tội thì bị cáo Đ được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.

Bị cáo Trần Quang Đ bị bắt tạm giữ ngày 01/02/2023 đến ngày 10/02/2023 chuyển tạm giam. Hiện nay bị cáo đang thi hành Lệnh tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trần Quang S, SN 1987 (Vắng mặt)

2. Anh Trần Quang Tr, sinh năm 1999 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Đều ở xóm Liên Thành, xã Võ M, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ

3.Anh Đinh Công T, sinh năm 2000 (Vắng mặt) Địa chỉ: Khu Vinh Quang, xã Minh Đ, huyện Tân S, tỉnh Phú Thọ

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 02 giờ 00 phút ngày 01/02/2023, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc tại nhà trọ của Trần Quang Đ có địa chỉ tại xóm Liên Thành, xã Võ M, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ có một số đối tượng đang tụ tập, có biểu hiện nghi vấn sử dụng ma túy nên Tổ công tác thuộc Công an huyện Thanh S đã tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, phát hiện có 05 đối tượng gồm: Trần Quang Đ, Sinh năm 1997, Hộ khẩu thường trú: xóm Tân Ph, xã Võ M, huyện Thanh S. Lê Trung H, Sinh năm 2000, Hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố Giang L, thị trấn Giang T, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Trần Quang S, Sinh năm 1987, Hộ khẩu thường trú: xóm Liên Thành, xã Võ M, huyện Thanh S. Trần Quang Tr, Sinh năm 1999, Hộ khẩu thường trú: xóm Liên Thành, xã Võ M, huyện Thanh S, có một đối tượng tên là H khi thấy có công an kiểm tra đã trèo rào bỏ chạy. Quá trình kiểm tra, Trần Quang Đ tự nguyện giao nộp 02 túi nilon trong đó: 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng; 01 túi nilon màu trắng , viền đỏ có khuy bấm, bên trong chứa 02 viên nén màu nâu.Trần Quang Đ tự khai nhận đây là 02 gói ma tuý loại Katemine và ma tuý tổng hợp loại “Kẹo” vừa mua được của Lê Trung H và H với số tiền 3.000.000 đồng. Tổ Công tác đã lập biên bản kiểm tra, niêm phong các túi nilon do Đ giao nộp và thu giữ các đồ vật, tài sản liên quan gồm:

Thu giữ của Trần Quang Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE, màu xanh, đã cũ, bên trong gắn sim của số điện thoại 0962.617.X.

Thu giữ của Lê Trung H 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE, màu xanh, đã cũ, bên trong gắn sim của số điện thoại 0975.055.X; 01 túi giả da màu đen, đã cũ, có séc kéo; Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 1.100.000 đồng.

Thu giữ 01 xe máy nhãn hiệu HONDA WINNER X, màu đen - bạc, đã cũ, mang Biển kiểm soát 19D1-X (xe máy của đối tượng tên H đã bỏ chạy để lại).

Sau khi tiến hành lập biên bản, niêm phong, thu giữ đồ vật, tài sản, Tổ Công tác đã đưa các đối tượng trên về trụ sở Công an huyện Thanh S để làm việc.

Xét thấy vụ việc có dấu hiệu tội phạm, Công an huyện Thanh S đã chuyển toàn bộ tài liệu, chứng cứ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Thanh S để giải quyết theo thẩm quyền.

Cùng ngày 01/02/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh S đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Quang Đ tại xóm Liên Thành, xã Võ M, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ và tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Trung H tại tổ dân phố Giang L, thị trấn Giang T huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Kết quả: không thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài sản gì.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh S đã tiến hành trưng cầu giám định chất ma túy đối với chất rắn dạng tinh thể màu trắng và 02 viên nén màu nâu chứa trong hai túi nilon thu giữ của Trần Quang Đ. Tại Bản kết luận giám định số 220/KL-KTHS ngày 08/02/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ kết luận:

“Chất rắn dạng tinh thể màu trắng chứa trong 01 túi nilon màu trắng trong Bì niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 1,034 gam. Loại Ketamine”.

“02 viên nén màu nâu được chứa trong 01 túi nilon màu trắng, viền đỏ, có khuy bấm trong Bì niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 1,026 gam. Loại MDMA”.

Ketamine: số thứ tự 40, Danh mục III, Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

MDMA: số thứ tự 11, Danh mục IB, Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

Sau giám định hoàn trả số ma túy còn lại được niêm phong, dán kín trong 01 bì giấy ghi số 220/KLGĐ được đóng 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại vị trí các mép dán.

Tại Cơ quan điều tra, các đối tượng cùng khai nhận như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 31/01/2023, người xưng tên H đến phòng trọ của Đ chơi. Đ nhờ H mua hộ 2.000.000 đồng ma túy ke và kẹo. H đồng ý và bảo Đ chuyển 2.000.000 đồng vào tài khoản thuộc Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCB) có số 101285X1 mang tên Đinh Công T. Sau đó H gọi điện cho H (đang ở nhà tại Thái Nguyên) bảo H mua 2.000.000 đồng ma túy loại “Ke” và ma túy “Kẹo” mang về huyện Thanh S, Phú Thọ cho H thì H sẽ được hưởng lợi số tiền 1.000.000 đồng. H đồng ý và bảo H chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của H để H lấy tiền đi mua ma túy. Sau đó H nhận được 2.000.000 đồng từ tài khoản ngân hàng VCB có số 101285X1 mang tên Đinh Công T. H chuyển số tiền 2.000.000 đồng đến số tài khoản ngân hàng của một người tên Nguyễn T A (là bạn của H) để đổi lấy tiền mặt.

Sau khi có tiền mặt, H đến khu vực đường tròn, cạnh nút giao cao tốc Tân Long, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên mua của một người đàn ông H không biết tên, tuổi, địa chỉ 01 “chỉ” ma túy Ketamine được đựng trong túi nilon màu trắng và 02 viên ma túy “Kẹo” màu nâu được đựng trong túi nilon màu trắng, viền đỏ, có khuy bấm hết 2.000.000 đồng. H đi xe taxi của một người không biết tên, tuổi, địa chỉ từ Thái Nguyên đến xóm Liên Thành, xã Võ M, Thanh S để giao ma túy cho H. Đến khoảng 01 giờ, ngày 01/02/2023 thì H đón và đưa H đến nhà trọ của Trần Quang Đ ở xóm Liên Thành, xã Võ M, Thanh S. Tại đây, khi chỉ có H, Đ và H, H đã đưa cho H 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng là ma túy Ketamine; H nhận gói ma túy và đưa cho Đ cầm. Lúc này, Đ hỏi có “Kẹo” không thì H bảo H đưa cho anh Đ 02 viên ma túy “Kẹo” để lấy số tiền 1.000.000 đồng. Đ đã đưa cho H số tiền 1.000.000 đồng gồm 02 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, H nhận tiền và đưa cho Đ 01 túi nilon màu trắng, viền đỏ, có khuy bấm, bên trong chứa 02 viên nén màu nâu là ma túy “Kẹo”. Sau khi mua bán ma túy xong thì có Trần Quang S và Trần Quang Tr là bạn của H và Đ đến chơi. Đến khoảng 02 giờ 00 phút, ngày 01/02/2023, Tổ công tác thuộc Công an huyện Thanh S tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, H đã bỏ chạy, còn H, Đ, Tr, S ở lại làm việc. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Tại Cơ quan điều tra, H khai nhận mục đích bán ma túy cho Đ để kiếm lời. Mục đích Trần Quang Đ mua ma túy là để sử dụng cho bản thân do Đ nghiện ma túy, ngoài ra không có mục đích gì khác.

Ngày 13/01/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh S đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, ra Lệnh tạm giam đối với Lê Trung H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1, Điều 251 Bộ luật Hình sự và khởi tố bị can, ra Lệnh tạm giam đối với Trần Quang Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1, Điều 214 Bộ luật Hình sự. Xét thấy có căn cứ, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh S đã phê chuẩn các Lệnh, Quyết định của Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra theo quy định của pháp luật.

Đối với đối tượng tên H đã bỏ chạy khi kiểm tra, quá trình điều tra đã làm rõ đối tượng này sử dụng tên giả, tên thật của đối tượng là Đinh Công T, Sinh năm 2000, thường trú tại khu Vinh Quang, xã Minh Đ, huyện Tân S, tỉnh Phú Thọ. Về hành vi của T, quá trình điều tra đã xác định được như sau:

Về sự có mặt của T tại phòng trọ của H ngày 01/02/2023:

Cơ quan điều tra đã tiến hành cho H, Đ, Tr, S nhận dạng qua ảnh, xác định chính xác người liên lạc để H thực hiện việc mua bán ma túy với Đ và bỏ chạy khi bị kiểm tra chính là Đinh Công T.

Đối với 01 xe mô tô Biển kiểm soát: 19D1-X thu giữ khi kiểm tra, quá trình điều tra đã xác định là xe mô tô của anh trai của T. Anh trai của T đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài nên để xe mô tô ở nhà. Tài liệu điều tra xác định chiếc xe này T thường xuyên sử dụng làm phương tiện đi lại. Các bị can và những người liên quan đều xác nhận ngày 01/02/2023 xe mô tô này do T điều khiển đến phòng trọ của H.

Như vậy đã có đủ căn cứ để khẳng định ngày 01/02/2023, T có mặt ở phòng trọ của H và đã bỏ chạy, để lại xe máy khi bị kiểm tra.

Về hành vi mua bán ma túy của Đinh Công T Cơ quan điều tra đã tiến hành sao kê lịch sử cuộc gọi đi, đến giữa H, Đ và T. Lịch sử trong máy điện thoại xác định có việc trao đổi qua lại lẫn nhau giữa Đ và T; giữa T và H, phù hợp với thời gian việc mua bán ma túy như các đối tượng đã khai.

Tiến hành sao kê các tài khoản ngân hàng xác định được các giao dịch chuyển tiền qua ngân hàng của các đối tượng, phù hợp với lời khai của các đối tượng về việc mua bán ma túy. Theo đó Đ chuyển cho T 2.000.000 đồng, ngay sau đó T chuyển cho H 2.000.000 đồng.

Cơ quan điều tra đã tiến hành thu thập hồ sơ mở tài khoản của tài khoản số 101285X1 mang tên Đinh Công T, là tài khoản đã giao dịch chuyển số tiền 2.000.000 đồng trong ngày các bị can mua bán ma túy. Trong hồ sơ mở tài khoản do ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCB) cung cấp có nhiều tài liệu, trong đó có bản sao Giấy chứng minh nhân dân của T có chứng thực của UBND xã Minh Đ. Đủ căn cứ để xác định tài khoản này do Đinh Công T trực tiếp mở, quản lý, sử dụng.

Quá trình điều tra đã xác định H và Đ trước đó không quen biết nhau. Tra cứu lịch sử cuộc gọi đi đến trong ngày 31/01/2023 và 01/02/2023 xác định H và Đ không liên lạc với nhau. Như vậy, có đủ căn cứ để xác định Đinh Công T là người trực tiếp liên lạc, trao đổi nội dung mua bán ma túy với H thì H mới có thông tin, địa chỉ để mang ma túy xuống gặp, trao đổi mua bán với Đ.

Như vậy, từ các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được, có đủ căn cứ để chứng minh Đinh Công T là người đã trực tiếp liên hệ, trực tiếp tham gia vào việc mua bán trái phép chất ma túy giữa H và Đ. Hành vi của Đinh Công T đồng phạm với Lê Trung H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với vai trò người giúp sức tích cực.

Ngày 09/6/2023 của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh S đã khởi tố bị can, ra Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Đinh Công T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát đã phê chuẩn các Lệnh, Quyết định của Cơ quan điều tra.

Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, Đinh Công T đã bỏ trốn khỏi địa phương, Cơ quan điều tra không thực hiện được Lệnh bắt đối với T. Ngày 19/6/2023, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định truy nã đối với T theo quy định của pháp luật.

Căn cứ thời hạn điều tra vụ án, ngày 20/6/2023, Cơ quan điều tra đã tiến hành tách vụ án đối với hành vi phạm tội của Đinh Công T. Xét thấy việc tách vụ án của Cơ quan điều tra không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án, bảo đảm việc truy tố, xét xử đối với H, Đ nên chấp nhận.

Đối với Trần Quang S và Trần Quang Tr là hai người có mặt tại phòng trọ của bị can H khi bị kiểm tra. Quá trình điều tra đã làm rõ S và Tr đến phòng trọ của H sau khi hành vi mua bán ma túy diễn ra. Mục đích của S, Tr đến phòng của H để chơi, không có mục đích gì khác do vậy hành vi của S, Tr không liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của các bị can. Cơ quan điều tra không đề cập, xử lý trong vụ án này xét thấy là đúng pháp luật nên chấp nhận.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Lê Trung H vào ngày 01/02/2023 tại thành phố Thái Nguyên, ngoài lời khai của H không có tài liệu nào khác nên Cơ quan điều tra không xác định được người đàn ông này. Do vậy, Cơ quan điều tra không có cơ sở đề cập, giải quyết trong vụ án này xét thấy là phù hợp nên chấp nhận.

Đối với bà Đào Thị L, Sinh năm 1960, thường trú tại khu 6, xã Thục L, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ là chủ nhà trọ, cho Trần Quang Đ thuê phòng tại xóm Liên Thành, xã Võ M, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ. Kết quả điều tra xác định bà L không biết, không liên quan hành vi phạm tội của các bị can. Do vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh S không đề cập xử lý, xét thấy là phù hợp nên chấp nhận.

Đối với người bạn của Lê Trung H tên là Nguyễn T A, Sinh năm 1989, thường trú tại khu 5, phường Đại Phúc, thành Phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh là người mà H đã chuyển số tiền 2.000.000 đồng để đổi lấy tiền mặt sau đó đi mua ma túy. H khai khi đổi tiền không nói cho anh Anh biết đổi tiền để làm gì. Do vậy, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh S không đề cập xử lý Anh trong vụ án này, xét thấy là phù hợp nên chấp nhận.

Về nhân thân:

Lê Trung H phạm tội lần đầu, quá trình điều tra đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.

Trần Quang Đ không có tiền án, tiền sự. Lần đầu thực hiện hành vi phạm tội. Lịch sử bản thân: Ngày 17/5/2019 Trần Quang Đ bị Công an huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hủy hoại tài sản, phạt 3.500.000 đồng. Quá trình điều tra xác minh Đ chưa thực hiện Quyết định xử phạt hành chính này nhưng đến nay Công an huyện Thanh Oai không áp dụng biện pháp cưỡng chế xử lý hành chính đối với Đ. Do vậy, căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 6 Luật xử lý vi phạm hành chính thì thời hiệu xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi hủy hoại tài sản của Đ đã hết. Tính đến ngày 01/02/2023 khi thực hiện hành vi phạm tội thì được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.

Về vật chứng và các đồ vật tài sản thu giữ gồm: 01 (một) bì giấy số 220/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ chứa ma túy trả lại sau giám định; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE, màu xanh, đã cũ, bên trong gắn sim số điện thoại 0962.617.X (thu giữ của Đ); 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE, màu xanh, đã cũ, bên trong gắn sim số điện thoại 0975.055.X; 01 túi giả da màu đen, đã cũ, có séc kéo (thu giữ của H) là vật chứng được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh S chở xử lý trong quá trình xét xử vụ án.

Đối với số tiền 1.100.000 đồng thu giữ của H khi kiểm tra, quá trình điều tra đã làm rõ trong đó 1.000.000 đồng là tiền Đ đưa cho H để mua ma túy, 100.000 đồng là tiền H lao động mà có. Số tiền này được chuyển vào tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh S tại kho bạc Nhà nước huyện Thanh S chờ xử lý trong quá trình xét xử vụ án.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu HONDA WINNER X, màu đen - bạc, đã cũ, mang BKS: 19D1-X mà T bỏ lại khi chạy trốn. Tài liệu điều tra xác định chiếc xe trên mang tên anh Đinh Công T, Sinh năm 1999, thường trú tại khu Vinh Quang, xã Minh Đ, huyện Tân S, tỉnh Phú Thọ là anh trai của Đinh Công T. Tháng 11/2022, anh T đi lao động xuất khẩu tại Nhật Bản nên để chiếc xe mô tô trên ở nhà bố đẻ là ông Đinh Công T. Do T ở cùng nhà với ông T, nên T mượn chiếc xe mô tô trên để sử dụng làm phương tiện để đi lại. Chiếc xe này được tách và chuyển theo vụ án của bị can Đinh Công T, được nhập kho vật chứng của Công an huyện Thanh S theo quy định.

Bản cáo trạng số: 41/CT - VKSThS ngày 10 tháng 7 năm 2023, của Viện kiểm sát nhân dân huyên Thanh S, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Lê Trung H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, Truy tố bị cáo Trần Quang Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, điểm g Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà hôm nay Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân huyên Thanh S truy tố bị cáo Lê Trung H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 251; bị cáo Trần Quang Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, điểm g Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 251, điểm s, Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 - Bộ luật Hình sự.

1. Xử phạt bị cáo: Lê Trung H từ 24 đến 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 01/02/2023.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 - Bộ luật Hình sự cho bị cáo Lê Trung H.

Căn cứ: Điểm c, điểm g, Khoản 1 Điều 249, điểm s, Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 - Bộ luật Hình sự.

2. Xử phạt bị cáo: Trần Quang Đ từ 12 đến 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 01/02/2023.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 - Bộ luật Hình sự cho bị cáo Trần Quang Đ.

Xử lý vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 - Bộ luật Hình sự; Điều 106 - Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu 01 bì giấy số 220/KL- KTHS ngày 08/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ được hoàn lại đối tượng sau giá định gồm: 0,815 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng; 0,794 gam viên nén màu nâu là mẫu vật còn lại cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định, được niêm phong dán kín trong 01 bì giấy, bên ngoài bì giấy được đóng 05 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán để tiêu hủy.

Tịch thu của bị cáo Lê Trung H số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) do phạm tội mua bán trái phép chất ma túy ngày 01/02/2023 mà có để sung quỹ Nhà nước. Số tiền này đã được chuyển vào tài khoản số: 3949.0.1054594.X của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ. Theo ủy nhiệm chi ngày 13/7/2023.

Tịch thu của bị cáo Lê Trung H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xanh đã cũ; tịch thu của bị cáo Trần Quang Đ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xanh đã cũ để sung quỹ Nhà nước.

Tịch thu của bị cáo Lê Trung H 01 sim số 0975.055.X; tịch thu của bị cáo Trần Quang Đ 01 sim điện thoại số 0962.617.X để tiêu hủy.

Trả lại cho bị cáo Lê Trung H 100.000đ (Một trăm ngàn đồng); 01 túi giả da màu đen, đã cũ có séc kéo để quản lý sử dụng. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Toàn bộ số vật chứng trên được bàn giao theo bên bản giao nhận vật chứng ngày 14/7/2023 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ.

Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu và chứng cứ được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là anh anh Trần Quang S, anh Trần Quang Tr và Đinh Công T đã được Toà án triệu tập tham gia tố tụng nhưng họ đều vắng mặt không lý do. Tại phiên toà hôm nay bị cáo H, bị cáo Đ, Kiểm sát viên có mặt tại phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử không hoãn phiên toà mà tiếp tục xét xử vắng mặt họ. Hội đồng xét xử xét thấy người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà hôm nay nhưng trước đó họ đã có lời khai, biên bản làm việc, biên bản đối chất tại Cơ quan điều tra được lưu trong hồ sơ vụ án, sự vắng mặt của họ tại phiên tòa hôm nay không làm thay đổi đến bản chất, nội dung vụ án. Căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng họ là phù theo hợp quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Lê Trung H, bị cáo Trần Quang Đ đã khai nhận hành vi phạm tội của mình theo nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh S đã truy tố, không oan sai. Lời nhận tội của bị cáo H, bị cáo Đ là phù hợp với vật chứng thu được và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 02 giờ 00 phút ngày 01/02/2023, tại xóm Liên Thành, xã Võ M, huyện Thanh S, 01 người nam giới tự xưng là (H) tên thật là Đinh Công T, sinh năm 2000, ở tại Khu Vinh Quang, xã Minh Đ, huyện Tân S, tỉnh Phú Thọ là người đã liên lạc trao đổi nội dung mua, bán ma túy, chuyển tiền, và là người trực tiếp cầm ma túy để bị cáo Lê Trung H, sinh năm 2000 ở Tổ dân phố Giang L, thị trấn Giang T, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên bán trái phép 1,034 gam ma túy loại ketamine và 1,026 gam ma túy loại MDMA với giá 3.000.000đ cho bị cáo Trần Quang Đ, sinh năm 1997, ở xóm Tân Ph, xã Võ M, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ đã bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh S điều tra làm rõ. Như vậy hành vi của bị cáo Lê Trung H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 - BLHS.

Điều 251 của Bộ luật Hình sự quy định:

1." Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

Hành vi của bị cáo Trần Quang Đ đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” bị xử lý theo quy định tại điểm c, điểm g, Khoản 1 Điều 249 – Bộ luật Hình sự.

Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định:

1." Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a)…….

c) Heroine,Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, hoặc XLR -11 có khối lượng từ 0,1 gam đến 05 gam;

g) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam.

Xét thấy tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo Lê Trung H và bị cáo Trần Quang Đ là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo H, bị cáo Đ đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý. Trong xã hội hiện nay số lượng người sử dụng ma túy đang có chiều hướng gia tăng, ở nhiều vùng, miền và các lứa tuổi khác nhau. Do vậy Đảng và Nhà nước ta đang có nhiều biện pháp tuyên truyền, giáo dục, đấu tranh ngăn chặn không để tệ nạn ma túy lây lan trong cộng đồng xã hội. Mặc dù Tòa án nhân dân huyện Thanh S đã đưa ra xét xử nhiều vụ án về tội mua, bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy để nhằm tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân. Ngày 01/02/2023 bị cáo H đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho bị cáo Đ với số tiền 3.000.000đ đã gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Thanh S và nơi bị cáo cư trú. Xét về tác hại của Ma túy thấy rằng, ma túy là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm và bệnh tật khác, xét về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì bị cáo H, bị cáo Đ là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực pháp luật, nhận thức được về hành vi mua bán, tàng trữ, trái phép chất ma túy là bất hợp pháp, bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng vì mục đích lợi nhuận, nên các bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy, thể hiện tính coi thường pháp luật. Vì vậy, HĐXX cần đưa bị cáo H, bị cáo Đ ra xét xử và có hình phạt nghiêm khắc đối với các bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo Trần Quang Đ là người có nhân thân xấu: Ngày 17/5/2019 bị cáo Trần Quang Đ bị Công an huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hủy hoại tài sản, tiền phạt là 3.500.000 đồng. Quá trình điều tra, xác minh bị cáo Đ chưa thực hiện Quyết định xử phạt hành chính, nhưng đến nay Công an huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội không áp dụng biện pháp cưỡng chế xử lý hành chính đối với bị cáo Đ. Do vậy, căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 6 Luật xử lý vi phạm hành chính thì thời hiệu xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi hủy hoại tài sản của bị cáo Đ đã hết. Tính đến ngày 01/02/2023 khi thực hiện hành vi phạm tội thì bị cáo Đ được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.

Bị cáo Lê Trung H, bị cáo Trần Quang Đ trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo có tuổi đời còn trẻ, nhưng không chịu tu dưỡng, rèn luyện, lao động làm ăn chân chính để tạo ra của cải vật chất nuôi sống bản thân và gia đình, do ham chơi, không muốn lao động, nhưng lại muốn có tiền hưởng thụ, nên các bị cáo đã thực hiện hành vi mua, bán trái phép chất ma túy dẫn đến vi phạm pháp luật.

Xong trước khi quyết định hình phạt đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng:

Bị cáo Lê Trung H có ông Nội là Lê Khắc Lạng đã tham gia kháng chiến chống Mỹ có thành tích được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì có xác nhận của Phòng Nội vụ huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên; bị cáo Trần Quang Đ có ông Nội là Trần Quang Hòa đã tham gia kháng chiến chống Mỹ có thành tích được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Huy chương chiến thắng hạng nhì. Do đó, bị cáo H, bị cáo Đ được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51 - BLHS. Trong vụ án này bị cáo H, bị cáo Đ không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Khoản 1 Điều 52 – BLHS. Căn cứ vào nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo và các quy định khác của pháp luật. HĐXX thấy rằng cần xử phạt bị cáo H, bị cáo Đ hình phạt tù của khung hình phạt mà điều luật đã quy định, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cho các bị cáo lao động, rèn luyện, cải tạo trở thành người công dân sống có ích cho gia đình và xã hội.

Hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 và Khoản 5 Điều 251 - BLHS có quy định, người phạm tội còn có thể phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh S đã xác minh, bị cáo H, bị cáo Đ không đảm nhiệm chức vụ gì, các bị cáo làm nghề lao động tự do, việc làm, thu nhập không ổn định, các bị cáo không có tài sản riêng, nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung theo Khoản 5 Điều 249 đối với bị cáo Đ và Khoản 5 Điều 251 - BLHS đối với bị cáo H là phù hợp.

Đinh Công T sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã bỏ trốn khỏi địa phương, Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã số: 03/QĐTN -CQĐT ngày 19/6/2023 đối với Đinh Công T nhưng không có kết quả, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh S đã tách hành vi phạm tội của Đinh Công T để xử lý bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật.

Về nguồn gốc số ma tuý bị cáo Lê Trung H khai ngày 01/02/2023 bị cáo H mua ma túy của một người đàn ông ở thành phố Thái Nguyên, bị cáo không biết tên tuổi người này, ngoài lời khai của bị cáo H không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh, nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh, làm rõ để giải quyết trong vụ án này.

Đối với Trần Quang S và Trần Quang Tr hai người có mặt tại phòng trọ của bị cáo H khi bị kiểm tra, Công an đã làm rõ S và Tr đến phòng trọ của bị cáo H để chơi, sau khi hành vi mua bán ma túy đã diễn ra, ngoài ra không có mục đích gì khác. Do đó S và Tr không liên quan gì đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo H. Cơ quan điều tra không đề cập xử lý S và Tr trong vụ án là phù hợp.

Đối với bà Đào Thị L là chủ nhà trọ cho bị cáo Lê Trung H thuê phòng tại xóm Liên Thành, xã Võ M, huyện Thanh S, bà L không biết việc mua bán ma túy trên, không liên quan gì đến hành vi phạm tội của các bị cáo. Do vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý bà L trong vụ án là phù hợp.

Đối với Nguyễn Anh T là bạn của bị cáo H là người mà bị cáo H chuyển số tiền 2.000.000đ để đổi lấy tiền mặt mua ma túy. Do bị cáo H không nói nên T không biết bị cáo H chuyển tiền, đổi tiền làm gì. Nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý T là phù hợp.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WINNER X, màu đen - bạc, đã cũ, mang BKS: 19D1-X mà T bỏ lại khi chạy trốn. Cơ quan điều tra xác định chiếc xe trên mang tên anh Đinh Công T, Sinh năm 1999, thường trú tại khu Vinh Quang, xã Minh Đ, huyện Tân S, tỉnh Phú Thọ là anh trai của Đinh Công T. Tháng 11/2022, anh T đi lao động xuất khẩu tại Nhật Bản nên để chiếc xe mô tô trên ở nhà bố đẻ là ông Đinh Công T. Do T ở cùng nhà với ông T, nên T mượn chiếc xe mô tô trên để sử dụng làm phương tiện để đi lại. Chiếc xe này được tách và chuyển theo vụ án của Đinh Công T, được nhập kho vật chứng của Công an huyện Thanh S theo quy định.

Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo Lê Trung H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xanh đã cũ, bên trong có lắp sim; thu của bị cáo Trần Quang Đ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xanh đã cũ, bên trong có lắp sim các bị cáo đều khai nhận đã sử dụng điện thoại để giao dịch mua bán ma túy. Nay cần tịch thu 02 chiếc điện thoại trên để sung quỹ Nhà nước. Tịch thu 02 sim điện thoại để tiêu hủy.

Đối với số tiền 1.100.000 đồng thu giữ của bị cáo H, Cơ quan điều tra đã làm rõ bị cáo Đ đưa số tiền 1.000.000 đồng cho bị cáo H để mua ma túy nay cần tịch thu số tiền này để sung quỹ Nhà nước. Đối với số tiền 100.000 đồng là tiền bị cáo H lao động mà có, không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo H. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[3] Xử lý vật chứng vụ án:

Tịch thu 01 bì giấy số 220/KL- KTHS ngày 08/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ được hoàn lại đối tượng sau giá định gồm: 0,815 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng; 0,794 gam viên nén màu nâu là mẫu vật còn lại cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định, được niêm phong dán kín trong 01 bì giấy, bên ngoài bì giấy được đóng 05 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán để tiêu hủy.

Tịch thu của bị cáo Lê Trung H số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) do phạm tội mua bán trái phép chất ma túy ngày 01/02/2023 mà có để sung quỹ Nhà nước. Số tiền này đã được chuyển vào tài khoản số: 3949.0.1054594.X của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ. Theo ủy nhiệm chi ngày 13/7/2023.

Tịch thu của bị cáo Lê Trung H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xanh đã cũ; tịch thu của bị cáo Trần Quang Đ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xanh đã cũ để sung quỹ Nhà nước.

Tịch thu của bị cáo Lê Trung H 01 sim số 0975.055.X; tịch thu của bị cáo Trần Quang Đ 01 sim điện thoại số 0962.617.X để tiêu hủy.

Trả lại cho bị cáo Lê Trung H 100.000đ (Một trăm ngàn đồng); 01 túi giả da màu đen, đã cũ có séc kéo để quản lý sử dụng. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Toàn bộ số vật chứng trên được bàn giao theo bên bản giao nhận vật chứng ngày 14/7/2023 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda WINNERX, màu đen bạc đã cũ, BKS 19D -X mà T sử dụng vào việc mua bán ma túy, chiếc xe mô tô này của anh Đinh Công T, anh T là anh trai T, tháng 12/2022 anh tú đi xuất khẩu lao động tại nước Nhật bản để xe mô tô ở nhà bố đẻ ông Đinh Công T, Đinh Công T đã mượn chiếc xe mô tô trên để sử dụng đi lại, ông T không biết T sử dụng vào việc mua bán ma túy, chiếc xe mô tô được tách ra và chuyển theo vụ án Đinh Công T sẽ được giải quyết bằng vụ án khác. Do vậy HĐXX không xem xét.

[4] Về án phí hình sự: Bị cáo Lê Trung H; bị cáo Trần Quang Đ phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1, Điều 251; Khoản 1 Điều 249, Điều 38 - Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào: Điều 331, Điều 333 - Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo bị cáo Lê Trung H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo Trần Quang Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 251, điểm s Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 - Bộ luật Hình sự.

1. Xử phạt bị cáo: Lê Trung H 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 01/02/2023.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 - Bộ luật Hình sự cho bị cáo Lê Trung H.

Căn cứ: Điểm c, điểm g, Khoản 1 Điều 249, điểm s, Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 - Bộ luật Hình sự.

2. Xử phạt bị cáo: Trần Quang Đ 12 (Mười Hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 01/02/2023.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 - Bộ luật Hình sự cho bị cáo Trần Quang Đ.

Xử lý vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 - Bộ luật Hình sự; Điều 106 - Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu 01 bì giấy số 220/KL- KTHS ngày 08/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ được hoàn lại đối tượng sau giá định gồm: 0,815 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng; 0,794 gam viên nén màu nâu là mẫu vật còn lại cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định, được niêm phong dán kín trong 01 bì giấy, bên ngoài bì giấy được đóng 05 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán để tiêu hủy.

Tịch thu của bị cáo Lê Trung H số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) do phạm tội mua bán trái phép chất ma túy ngày 01/02/2023 mà có để sung quỹ Nhà nước. Số tiền này đã được chuyển vào tài khoản số: 3949.0.1054594.X của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ. Theo ủy nhiệm chi ngày 13/7/2023.

Tịch thu của bị cáo Lê Trung H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xanh đã cũ; tịch thu của bị cáo Trần Quang Đ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xanh đã cũ để sung quỹ Nhà nước.

Tịch thu của bị cáo Lê Trung H 01 sim số 0975.055.X; tịch thu của bị cáo Trần Quang Đ 01 sim điện thoại số 0962.617.X để tiêu hủy.

Trả lại cho bị cáo Lê Trung H 100.000đ (Một trăm ngàn đồng); 01 túi giả da màu đen, đã cũ có séc kéo để quản lý sử dụng. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Toàn bộ số vật chứng trên được bàn giao theo bên bản giao nhận vật chứng ngày 14/7/2023 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ.

Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Quang Đ và bị cáo Lê Trung H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án, hoặc Bản án được niêm yết tại trụ sở UBND nơi họ cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 50/2023/HS-ST

Số hiệu:50/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;