Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 49/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TG, TNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 49/2022/HS-ST NGÀY 19/05/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 5 năm 2022, tại phòng xét xử, trụ sở Tòa án nhân dân huyện TG, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 47/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Thị M; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1982; Tại: Huyện TG, tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Bản H, xã C, huyện TG, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Nông nghiệp; Trình độ văn hóa: Không; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn D, sinh năm 1961 và bà: Lò Thị L, sinh năm 1961; Năm 1998 bị cáo chung sống như vợ chồng với Lò Văn B, sinh năm 1980 và có 01 người con sinh năm 1999. Năm 2005 lấy chồng là Lường Văn C, sinh năm 1982 và có 01 người con sinh năm 2005; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2021 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện TG; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Thương, sinh năm 1965. Là Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, (có mặt).

- Người phiên dịch cho bị cáo: Chị Bạc Thị Trang, sinh năm 2000. Trú tại: Khối Trường Xuân, thị trấn TG, huyện TG, tỉnh Điện Biên, (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ, ngày 20/12/2021, Lò Thị M đi đến khu vực cầu Bản H, xã C, huyện TG để mua thức ăn. Khi đến cầu Bản H thì M gặp một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu. Qua trao đổi và thỏa thuận, M mua được của người đàn ông đó 01 gói Heroine được bọc bằng mảnh nilon màu xanh với giá 500.000đ với mục đích bán lẻ kiếm lời. Sau khi mua được ma túy, M cầm gói ma túy về nhà rồi cất giấu trong đống đệm ngủ tại nhà M. Đến khoảng 07 giờ ngày 21/12/2021, M lấy gói Heroine ra và dùng dao lam chia số Heroine thành 36 phần và dùng các mảnh nilon màu xanh gói lại thành 35 gói, còn 01 phần M dùng mảnh nilon màu hồng gói lại rồi dùng mảnh giấy trắng gói lại. Sau khi chia ma túy xong, M cất 02 gói Heroine ở trong đống đệm trước đó, còn 34 gói Heroine M gói lại bằng 01 mảnh nilon màu xanh rồi cất giấu ở góc vườn nhà M. Đến 10 giờ 15 phút ngày 21/12/2021, khi Lò Thị M đang ở nhà tại Bản H, xã C thì bị tổ công tác Công an huyện TG vào nhà kiểm tra phát hiện, bắt quả tang thu giữ của M 02 gói nhỏ chứa chất bột màu trắng nghi Heroine (trong đó có 01 gói được gói bên ngoài bằng giấy trắng bên trong đựng 01 gói nilon màu hồng bên trong chứa chất bột màu trắng và 01 gói nilon màu xanh bên trong chứa chất bột màu trắng). Qua khám xét khẩn cấp nơi ở của Mai thu giữ tại góc vườn nhà M 34 gói nilon màu xanh bên trong cũng đều chứa chất bột màu trắng (nghi Heroine). M khai nhận đó là số ma túy M cất giấu nhằm mục đích để bán lẻ kiếm lời. Tổ công tác tiến hành mời người chứng kiến và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng đối với Lò Thị M. Sau đó áp giải M về Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TG để làm rõ hành vi phạm tội.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng ngày 21/12/2021 đã xác định vật chứng thu giữ của Lò Thị M gồm:

+ Mẫu chất bột màu trắng (M1): Có khối lượng 3,34 gam; Trích 0,15 gam làm mẫu gửi giám định chất ma túy (ký hiệu M1A); Khối lượng còn lại 3,19 gam (ký hiệu M1B).

+ Mẫu chất bột màu trắng (M2): Có khối lượng 2,9 gam; Trích 0,22 gam làm mẫu gửi giám định chất ma túy (ký hiệu M2A); Khối lượng còn lại 2,68 gam (ký hiệu M2B).

Như vậy: Tổng khối lượng chất bột màu trắng nghi Heroine thu giữ của Lò Thị M (M1+M2) là 6,24 gam, đã trích (M1A + M2A) tổng 0,37 gam làm mẫu vật gửi giám định, vật chứng còn lại (M1B + M2B) có tổng khối lượng 5,87 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 174/GĐ - PC09 ngày 13/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: 02 mẫu chất bột màu trắng ký hiệu M1A, M2A trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Thị M gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.

Tại phiên tòa bị cáo Lò Thị M một lần nữa đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Tại bản Cáo trạng số: 28/CT-VKSTG, ngày 18/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TG, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Lò Thị M về tội Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa trong phần tranh luận đại diện VKSND huyện TG, tỉnh Điện Biên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 luật hình sự; Xử phạt bị cáo từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy số vật chứng còn lại là 5,87 gam Heroine, 01 mảnh giấy, 01 mảnh nilon màu hồng, 36 mảnh nilon màu xanh, 02 vỏ phong bì cũ; Miễn án phí HSST cho bị cáo.

Tại Bản luận cứ bào chữa cho bị cáo Lò Thị M: Người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến gì về hành vi và các Quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện TG, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TG, Kiểm sát viên. Nhất trí với Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TG truy tố bị cáo về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai. Người Bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình, nhân thân của bị cáo, gia đình khó khăn, mặt khác trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải nên đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Miễn án phí HSST cho bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến gì bổ sung vào bản luận cứ bào chữa.

Đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến gì tranh luận vì ý kiến của người bào chữa đồng nhất với đề nghị của Viện kiểm sát nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Lời nói sau cùng bị cáo xin được giảm án, ngoài ra bị cáo không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của bị cáo: Khoảng 10 giờ 15 phút, ngày 21/12/2021, tại nhà của bị cáo Lò Thị M ở Bản H, xã C, huyện TG tổ công tác Công an huyện TG phát hiện, bắt quả tang thu giữ của bị cáo Lò Thị M 36 gói Heroine có tổng khối lượng 6,24 gam (Trong đó có 01 gói Heroine nilon màu hồng bên ngoài gói bằng giấy trắng và 35 gói Heroine được gói bằng nilon màu xanh). Số ma túy trên bị cáo khai mua vào thời điểm khoảng 19 giờ, ngày 20/12/2021 tại khu vực cầu Bản H, xã C, huyện TG của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ với giá 500.000đ. Sau khi mua được ma túy bị cáo cầm gói ma túy về nhà cất giấu trong đống đệm ngủ tại nhà bị cáo. Đến khoảng 07 giờ ngày 21/12/2021, bị cáo lấy gói Heroine ra và dùng dao lam chia số Heroine thành 36 phần, sau khi chia nhỏ xong bị cáo cất giấu 02 gói Heroine ở trong đống đệm ngủ, còn 34 gói Heroine bị cáo cất giấu ở góc vườn trong nhà bị cáo. Tất cả số Heroine trên bị cáo cất giấu để nhằm mục đích bán lẻ kiếm lời nhưng bị cáo chưa kịp bán cho ai thì bị bắt. Động cơ, mục đích thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo nhằm thu lợi trái pháp luật từ việc bán ma túy. Hành vi của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định, Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung, các biên bản ghi lời khai có trong hồ sơ vụ án cũng như Cáo trạng đã truy tố, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa. Bị cáo đã thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo cất giấu chất ma túy là Heroine với tổng khối lượng 6,24 gam được quy định tại điểm i Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Như vậy với hành vi và khối lượng ma túy bị thu giữ thì bị cáo đã phạm vào tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của bị cáo.

[2]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo còn là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện TG nói riêng và tỉnh Điện Biên nói chung. Tội phạm mà bị cáo vi phạm là tội phạm rất nghiêm trọng, vì vậy hành vi của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4]. Về nhân thân: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại huyện TG. Năm 1998 chung sống như vợ chồng với Lò Văn B và có 01 người con chung, đến năm 2005 lấy chồng là Lường Văn C và có 01 người con chung. Bản thân bị cáo không chịu tu dưỡng, rèn luyện để trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội mà lại có hành vi mua bán trái phép chất ma túy thể hiện sự công khai coi thường pháp luật của bị cáo để nhằm mục đích thu lợi trái pháp luật từ ma túy. Với hành vi và khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo cần áp dụng hình phạt tù để đảm bảo tính nghiêm minh, răn đe và giáo dục bị cáo.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự, nhưng bị cáo không có thu nhập ổn định nên không có khả năng thi hành, do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí HSST nên bị cáo được miễn án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7]. Biện pháp tư pháp và việc xử lý vật chứng: Theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy vật chứng còn lại gồm 5,87 gam Heroine, cùng 01 mảnh giấy, 01 mảnh nilon màu hồng, 36 mảnh nilon màu xanh, 02 vỏ phong bì cũ dùng để niêm phong vật chứng thu giữ của Lò Thị M.

[8]. Các vấn đề khác trong vụ án: Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo do bị cáo không biết tên, tuổi và địa chỉ ở đâu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TG không có căn cứ để điều tra xác minh làm rõ, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[9]. Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện TG, tỉnh Điện Biên và người bào chữa về hình phạt, tội danh, án phí, vật chứng Heroine là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10]. Về hành vi và các Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TG, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TG, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc có khiếu nại gì về hành vi, Quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Thị M phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Thị M 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ là ngày 21/12/2021.

3. Về án phí: Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

4. Về biện pháp tư pháp và việc xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong bên trong chứa 5,87 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án, 01 mảnh giấy, 01 mảnh nilon màu hồng, 36 mảnh nilon màu xanh, 02 vỏ phong bì cũ dùng để niêm phong vật chứng thu giữ của Lò Thị M ngày 21/12/2021.

(Toàn bộ vật chứng của vụ án đã được cơ quan Điều tra Công an huyện TG, tỉnh Điện Biên chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện TG, tỉnh Điện Biên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/4/2022).

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (19/5/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 49/2022/HS-ST

Số hiệu:49/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;