TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 478/2021/HSST NGÀY 24/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 9 năm 2021 tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên mở phiên xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 514/2021/TLST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 507/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2020 đối với:
Bị cáo: Phạm Tùng N, sinh ngày 03 tháng 02 năm 2003.
ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 01, phường Phú X, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa 10/12. Con ông Phạm Văn T, sinh năm 1973 và con bà Trần Thị H, sinh năm 1976; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Vợ, con chưa có.
- Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.
Bị cáo bị tạm giữ tạm giam từ ngày 20/7/2021 đến nay.
(Có mặt tại phiên tòa )
Người chứng kiến: Ông Ngô Mạnh T, sinh năm 1962 Địa chỉ: Tổ 1, phường Gia S, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 14 giờ 30 phút ngày 20/7/2021, tổ công tác Công an phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 09 của phường thì phát hiện 01 nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, nam thanh niên tự khai tên là Phạm Tùng N. Quá trình kiểm tra, N tự giác lấy từ túi quần đùi bên phải đang mặc ra 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng giao nộp cho tổ công tác (niêm phong ký hiệu N1). N khai là ma túy đá của N mang đi mục đích để bán kiếm lời. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Tùng N và niêm phong, thu giữ vật chứng theo quy định. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của N 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng, lắp sim số 0569.545.162, đã qua sử dụng.
Cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng: Số chất tinh thể màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu N1 có khối lượng 0,476 gam (lấy 0,303 gam cho vào bì niêm phong ký hiệu N2 gửi giám định và 0,173 gam cho vào bì niêm phong ký hiệu N3 lưu kho).
Hồi 09 giờ ngày 21/7/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp người, chỗ ở, đồ vật... đối với Phạm Tùng N tại tổ 01, phường Phú Xá, thành phố Thái Nguyên, kết quả: không phát hiện thu giữ gì.
Tại kết luận giám định số 1178/KL- KTHS ngày 28/7/2021 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu N2 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng thu giữ ban đầu là 0,476 gam.
Tại cơ quan điều tra, Phạm Tùng N khai nhận: khoảng 13 giờ ngày 20/7/2021, N đang ở phòng trọ của bạn gái tại tổ 07, phường Phú Xá, thành phố Thái Nguyên thì có một tài khoản Facebook là Dương Tony (không rõ địa chỉ, lai lịch) nhắn tin hỏi mua 500.000 đồng tiền ma túy tổng hợp dạng đá của N, hẹn giao hàng tại khu vực chợ Gia Sàng, N đồng ý. Do không có sẵn ma túy nên N đã gọi điện đến số điện thoại 0985.213.312 của 01 người phụ nữ tên Thu khoảng 28-30 tuổi và hỏi mua của Thu 01 gói ma túy đá với giá 350.000 đồng. Thu đồng ý và hẹn N ra khu vực đường tàu thuộc phường Trung Thành, thành phố Thái Nguyên để đưa ma túy. Sau đó, N thuê xe ôm đến khu vực đường tàu thuộc phường Trung Thành, thành phố Thái Nguyên mục đích mua ma túy đá của Thu mang bán cho Dương Tony để kiếm lời. Khi đến nơi, N gặp và mua của Thu 01 gói ma túy đá với giá 350.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, N cất vào trong túi quần đùi bên phải đang mặc rồi tiếp tục thuê đi xe ôm đến khu vực chợ Gia Sàng thuộc tổ 09, phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên để bán ma túy nhưng chưa kịp bán thì bị tổ công tác ông an phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.
Lời khai nhận của Phạm Tùng N phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
Vật chứng của v n gồm:
- 02 (hai) bì niêm phong ký hiệu N2, N3 bên trong chứa chất ma túy;
- 01 (một) bì niêm phong ký hiệu T3 bên trong có 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, vỏ màu vàng, máy cũ, đã qua sử dụng. Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của hi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.
Tại bản cáo trạng số 523/CT-VKSTPTN ngày 10/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố Phạm Tùng N về tội "Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả.
Trong phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên tóm tắt nội dung vụ án, phân tích, đánh giá chứng cứ, từ đó đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Tùng N phạm tội ”Mua bán trái phép chất ma túy”, - Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 38 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt Phạm Tùng N từ 03 năm tù đến 04 năm tù - Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử phạt bổ sung bị cáo từ 5.000.000đ đến 10.000.000đ.
- Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự :
+ Tịch thu tiêu hủy 02 bì niêm phong ký hiệu N2,N3;
+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, vỏ màu vàng, máy cũ, đã qua sử dụng.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án buộc bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí Hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.
Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận thừa nhận việc truy tố là không oan, xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, trên cở sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người tham gia tố tụng khác Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2]Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo xác định cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố là đúng người, đúng tội. Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như biên bản khám xét, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định vào hồi 14 giờ 30 phút ngày 20/7/2021, tại khu vực tổ 09, phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, Phạm Tùng N đang có hành vi tàng trữ 0,476 gam Methamphetamine, mục đích để bán kiếm lời nhưng chưa kịp bán thì bị tổ công tác ông an phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.
[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Bị cáo đã biết ma túy là chất cấm, được Nhà nước quản lý nhưng vẫn mua ma túy về bán thu lời bất chính, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm nghiêm trọng đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, mà hành vi của bị cáo còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác gây nhức nhối trong xã hội, gây mất trật tự, an toàn tại địa phương. Do vậy hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Nội dung khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo là người có tuổi đời còn rất trẻ, trước khi phạm tội chưa có vi phạm gì nhưng là người có đầy đủ nhận thức về tác hại của ma túy, vì lười lao động, hám lời bất chính nên vẫn phạm tội, điều đó chứng tỏ thiếu ý thức rèn luyện bản thân và ý thức chấp hành pháp luật kém.Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, xác định lời khai tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là đúng, không quanh co, đổ lỗi cho người khác và xác định việc bị cáo phạm tội là do ý thức chủ quan của bị cáo, vì vậy cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có một mức án phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để giáo dục riêng và phòng ngừa phạm tội chung. Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là phù hợp.
Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Phạm Tùng N khai mua của một người phụ nữ tên Thu tại khu vực đường tàu thuộc phường Trung Thành, thành phố Thái Nguyên. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên cơ quan ảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở làm rõ để xử lý.
Đối với người chủ tài khoản facebook Dương Tony, là người hỏi mua ma túy của N ngày 20/7/2021, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên cơ quan ảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở làm rõ để xử lý.
Trong vụ án này, Phạm Tùng N khai gọi điện thoại cho đến số thuê bao 0985.213.312 của 01 người phụ nữ tên Thu (không rõ lai lịch địa chỉ) để mua ma túy vào ngày 20/7/2021. Quá xác minh đã xác định chủ số thuê bao trên là chị Dương Thị X (sinh năm 1989, trú tại: xóm Đầm Mương 14, xã Minh Đức, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên). Quá trình điều tra xác định chị X không sử dụng số thuê bao trên để liên lạc với N và không phải người phụ nữ đã bán ma túy cho N vào ngày 20/7/2021. Do đó, cơ quan ảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở để xử lý.
Đối với người lái xe ôm, là do N thuê chở đi mua ma túy, N không quen biết, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của người này nên cơ quan ảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở làm rõ để xử lý [4]Về xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
+ Cần tịch thu tiêu hủy 02 bì niêm phong ký hiệu N2, N3 bên trong chứa chất ma túy.
+ Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu nhãn hiệu Iphone, vỏ màu vàng, máy cũ, đã qua sử dụng được cho vào bì niên phong ký hiệu T3, quá trình điều tra Dương thừa nhận có sử dụng chiếc điện thoại trên vào việc mua bán ma túy nên cần phải tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[5] Về hình phạt bổ sung và án phí Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích thu lời bất chính, tuy nhiên bị cáo là người có tuổi đời còn rất trẻ, nên Hội đồng xét xử xét sẽ cân nhắc mức phạt tiền phù hợp với điều kiện của bị cáo.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật nộp ngân sách Nhà nước.
[6] Về áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cần áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo Phạm Tùng N 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
[7] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì c c lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
ăn cứ: Khoản 1, khoản 5 Điều 251; Điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Tùng N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy" 1.Xử phạt: Bị cáo Phạm Tùng N 42 (Bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/7/2021.
Về hình phạt bổ sung: Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000đ sung quỹ Nhà nước. Về áp dụng biện pháp ngăn chăn: căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, quyết định tạm giam bị cáo Phạm Tùng N 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
2. Xử lý vật chứng: căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu N2, có ghi hoàn trả 0,245gam mẫu N2 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu N2 vụ Phạm Tùng N, sinh năm 2003. Phạm tội về ma túy, mặt sau bì niêm phong có 02 dấu tròn đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký ghi họ tên Trần Đức Thủy, Phạm Anh Tuấn.
- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu N3, có ghi 0,173gam chất tinh thể màu trắng của Phạm Tùng N, mẫu lưu kho.Mặt sau bì niêm phong có 03 dấu tròn đỏ của cơ quan SĐT- Công an thành phố Thái Nguyên và chữ ký ghi họ tên Vũ X Đại, Phạm Tùng N, Ngô Mạnh Tấn, Nguyễn Minh Thắng, Trần Văn Hòe, Trần Đức Thủy.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 bì niêm phong ký hiệu T3, có ghi 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone, vỏ màu vàng, máy cũ đã qua sử dụng, bên trong có 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, vỏ màu vàng, số Imei 359235066993444, phần kính màn hình điện thoại bị vỡ. Mặt sau bì niêm phong có 03 dấu tròn đỏ của cơ quan SĐT- Công an thành phố Thái Nguyên và chữ ký ghi họ tên Phạm Anh Tuấn, Phạm Tùng N, Lý Văn Toán, Nguyễn Thị Huyền Trang.
Hiện số vật chứng trên đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý, theo biên bản giao nhận vật chứng số 605 ngày 07/9/2021.
3. Án phí: căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Phạm Tùng N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.
Bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 478/2021/HSST
Số hiệu: | 478/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về