Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 42/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 42/2023/HS-ST NGÀY 05/05/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 05 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lai Châu mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 49/2023/TLST-HS ngày 12/4/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2023/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 4 năm 2023, đối với bị cáo:

Mùa A V – sinh ngày 03 tháng 9 năm 1990 tại tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú: bản P, xã H, huyện N, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hoá: không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: nam; tôn giáo: Đạo Tin lành; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mùa A T (đã chết) và con bà Chang Thị M, sinh năm 1950; có vợ là Lò Thị D, sinh năm 1990 và có 04 con, con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: không có;

Bị cáo bị bắt ngày 31/12/2022 và bị tạm giữ tạm giam từ đó đến nay; bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Lò Thị D, sinh năm 1990; cư trú tại: bản P, xã H, huyện N, tỉnh Lai Châu; (có mặt)

Ngưi phiên dịch: Ông Lầu A P1; Nơi công tác: Đài Phát thanh truyền hình tỉnh Lai Châu; (có mặt)

Người bào chữa cho bị cáo:

Ông Lê Mạnh H1 – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm TGPLNN tỉnh Lai Châu; (có mặt)

Bà Nông Thị Minh H2 – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm TGPLNN tỉnh Lai Châu; (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo Vào hồi 12 giờ ngày 31/12/2022 tại Km 38 + 400 quốc lộ 12 thuộc bản A, xã P2, huyện S, tỉnh Lai Châu, Mùa A V đang thực hiện hành vi bán trái phép 02 cục thuốc phiện đựng trong 01 túi áo mưa màu đen cho một người đàn ông tên C (không rõ nhân thân, lai lịch cụ thể) với giá 100.000.000 đồng thì bị Công an tỉnh Lai Châu phát hiện, bắt quả tang và thu giữ số tang vật trên.

Trước cơ quan điều tra, V khai nhận số thuốc phiện trên là do V mua của một người đàn ông dân tộc Mông ở bên nước Lào (không rõ nhân thân, lai lịch) tại khu rừng giáp biên giới Việt - Lào với giá 29.000.000 đồng/kg, V đã trả trước 29.000.000 đồng và nợ lại 29.000.000 đồng. Sau đó, V mang về bán cho một người đàn ông tên C (do trước đó C gọi điện cho V hỏi mua ma túy và V đồng ý đi tìm mua về bán cho C với giá 50.000.000 đồng/kg), V không rõ nhân thân, lai lịch của C, khi đang mua bán thì bị phát hiện, bắt giữ V, còn C cùng một người đàn ông khác bỏ chạy thoát.

Quá trình điều tra đã tiến hành trưng cầu giám định: Kết luận giám định số 63/GĐ-KTHS, ngày 31/12/2022 của Phòng KTHS - Công an tỉnh Lai Châu đã xác định: 02 gói chất dẻo, màu nâu có mùi hắc (ký hiệu gói 1, gói 2) gửi giám định có tổng khối lượng là 1865,33 gam và tại bản Kết luận giám định số 64/GĐ-KTHS, ngày 04/01/2023 của Phòng KTHS – Công an tỉnh Lai Châu đã xác định: 02 (hai) mẫu chất dẻo, màu nâu có mùi hắc (ký hiệu mẫu 1, mẫu 2) gửi giám định là ma túy, loại Thuốc phiện.

Tại phiên tòa, bị cáo Mùa A V đều thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, biên bản khám xét, lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, kết quả giám định cùng các tài liệu chứng cứ được thu thập hợp pháp trong quá trình điều tra.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, người có quyền lợi liên quan (là vợ bị cáo V) trình bày: chiếc xe mô tô cơ quan điều tra thu giữ là tài sản của bản thân, khi bị cáo lấy xe mô tô thực hiện hành vi phạm tội thì người liên quan không biết. Do đó, người liên quan đề nghị Tòa án trả lại chiếc xe mô tô cho người liên quan.

Về các vấn đề khác của vụ án Về lời khai của Mùa A V đối với người giới thiệu, người bán và 02 người mua ma túy với bị cáo, quá trình điều tra chưa làm rõ được nên không đủ cơ sở xử lý cùng trong vụ án Về vật chứng khác thu giữ được: 1783,98 gam Thuốc phiện(còn lại sau giám định); 01 điện thoại di động; 01 xe mô tô và 01 căn cước công dân của Mùa A V.

Tại bản cáo trạng số 24/CT-VKSLC-P1 ngày 11/4/2023 của VKSND tỉnh Lai Châu truy tố Mùa A V về tội "Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm a khoản 3 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 16 - 17 năm tù; xử lý vật chứng: tịch thu để tiêu hủy số thuốc phiện còn lại sau giám định, tịch thu sung quĩ nhà nước phương tiện phạm tội 01 điện thoại di động và 01 xe mô tô, trả lại cho bị cáo CCCD; miễn hình phạt bổ sung và án phí HSST cho bị cáo.

Tại phiên tòa, người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử khi xem xét quyết định hình phạt cần lưu ý đến tình tiết để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: bị cáo là người dân tộc thiểu số, không được học hành, sinh sống ở vùng sâu vùng xa và đặc biệt khó khăn nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế; quá trình điều tra và xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân. Trả lại xe mô tô cho bị cáo, miễn hình phạt bổ sung và án phí cho bị cáo.

Tại lời nói sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Vào hồi 12 giờ ngày 31/12/2022 tại Km 38 + 400 quốc lộ 12 thuộc bản A, xã P2, huyện S, tỉnh Lai Châu, Mùa A V đang thực hiện hành vi bán trái phép 1865,33 gam thuốc phiện cho một người đàn ông tên C (không rõ nhân thân, lai lịch cụ thể) với giá 100.000.000 đồng thì bị Công an tỉnh Lai Châu phát hiện, bắt quả tang và thu giữ số tang vật trên.

Bị cáo Mùa A V là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, do hám lời bất chính nên bị cáo V đã đi mua và mang ma túy đi bán kiếm lời. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, hành vi này là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy. Bị cáo mang ma túy đi bán với khối lượng rất lớn (1865,33 gam Thuốc phiện) nên hành vi của bị cáo có tính chất rất nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo đã đủ các yếu tố cấu thành tội phạm và đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” – tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Do đó, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là hoàn toàn có cơ sở, không oan sai, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo Mùa A V từ nhỏ được gia đình nuôi dưỡng, lớn lên xây dựng gia đình và bản thân chưa có tiền án tiền sự. Trong quá trình điều tra và xét xử bị cáo đều đã thể hiện sự ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo - theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bên cạnh đó, bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng sâu vùng xa có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nhận thức pháp luật có phần hạn chế nên tòa cần coi đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Về vật chứng của vụ án:

Hội đồng xét xử cần tịch thu để tiêu hủy những vật không có giá trị sử dụng đã thu giữ trong quá trình điều tra: 1783,98 gam Thuốc phiện (còn lại sau giám định); cần tịch thu, hóa giá sung quỹ nhà nước vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, bao gồm: 01 điện thoại di động dùng liên lạc, trao đổi mua bán ma túy và 01 xe mô tô mà bị cáo dùng làm phương tiện đi bán ma túy; cần trả lại cho bị cáo 01 căn cước công dân mang tên Mùa A V.

Đối với ý kiến của người có quyền lợi liên quan, bị cáo và người bào chữa về việc đề nghị Tòa án trả lại chiếc xe mô tô của gia đình, xét thấy, giấy tờ đăng ký mang tên chị Lò Thị D (vợ bị cáo) và là tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân nên đây là tài sản chung của gia đình bị cáo, bị cáo đã dùng vào việc thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, đây là phương tiện dùng vào việc phạm tội cần phải tịch thu, hóa giá sung quỹ nhà nước theo quy định.

[5] Về án phí hình sự: bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng sâu vùng xa và đặc biệt khó khăn nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, nghề nghiệp và thu nhập từ sản xuất nông nghiệp thấp, khó có khả năng thi hành hình phạt bổ sung (phạt tiền) nên cần miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[7] Đối với các đối tượng có liên quan trong vụ án nhưng bị cáo không rõ nhân thân, lai lịch cụ thể nên trong quá trình điều tra không làm rõ được. Do đó, không đủ cơ sở xem xét xử lý trong cùng vụ án được. Kiến nghị cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ để xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các đối tượng có liên quan.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1/- Tuyên bố bị cáo Mùa A V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Mùa A V 16 (mười sáu năm) tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 31/12/2022.

2/- Về vật chứng của vụ án: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu để tiêu hủy: Một hộp niêm phong được làm bằng bìa cát tông dán kín nắp, bên ngoài được bọc bằng giấy trắng, hai mặt của hộp niêm phong có dán kín hai mảnh giấy trắng loại A4, trên hai mảnh giấy ghi: vật chứng vụ án: Mùa A V – SN 1990; HKTT: bản P, xã H, huyện N, tỉnh Lai Châu. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy .... Theo hồ sơ bên trong khối lượng còn lại 1783,98 gam Thuốc phiện còn lại sau giám định;

- Tịch thu, hóa giá sung quỹ nhà nước:

+ Một chiếc điện thoại di động cảm ứng nhãn hiệu VIVO vỏ màu xanh tím than số: IMEL: 867251056148126 điện thoại cũ đã qua sử dụng;

+ Một xe mô tô nhãn hiệu AIRBLADE màu xanh đen. Không biển kiểm soát. Số khung: RLHJF6336LZ064748, số máy: JF94E-0160866. Xe cũ, đã qua sử dụng. Dung tích xi lanh 124. Không thu hồi được đăng ký xe;

- Trả lại cho bị cáo: Một căn cước công dân số 012090000X mang tên Mùa A V.

(Tình trạng vật chứng được mô tả chi tiết như trong Biên bản giao, nhận vật chứng giữa cơ quan CSĐT Công an tỉnh (PC04) với Cục Thi hành án dân sự tỉnh lập hồi 09 giờ 15’ ngày 13/4/2023)

3/- Án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội: miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Báo cho bị cáo, người liên quan biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 42/2023/HS-ST

Số hiệu:42/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;