Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 39/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QO, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 39/2022/HS-ST NGÀY 22/08/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện QO, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 47/2022/TLST - HS ngày 08 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Xuân C, sinh năm 1992 tại Hà Nội; Tên gọi khác: không; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn P, xã PC, huyện CM, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: không; Giới tính: N; Trình độ học vấn: 10/12; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông: Lê Văn Th và bà: Nguyễn Thị C1; Vợ: Đỗ Thị Ch và có 01 con sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/5/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – C an thành phố Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 25 phút ngày 15/05/2022, tổ công tác Đội CSĐTTP về KT-MT, C an huyện QO – Thành phố Hà Nội phối hợp với C an xã ĐQ kiểm tra hành chính nhà nghỉ AS2 ở thôn Đồng Lư, xã ĐQ, huyện QO, Hà Nội. Qua kiểm tra, tại phòng 202 có bị cáo Lê Xuân C và 01 nữ là Phan Thị Mỹ V, sinh năm: 1999; HKTT: Số 08/1 kiệt 16 Duy Tân, phường An Cựu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế đồng thời phát hiện Lê Xuân C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. C khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 13/5/2022, C đi taxi từ nhà đến xã Cộng Hòa, huyện QO nhằm mục đích đón bạn gái là Phan Thị Mỹ V. Đến nơi, C biết V từ thành phố Huế - tỉnh Thừa Thiên Huế chưa ra kịp nên đã vào một quán nước bên lề đường tại khu vực Dốc Quán thuộc Thôn 1, xã Cộng Hòa. Tại đây, C gặp bạn xã hội quen từ năm 2018 tên N, khoảng 35 tuổi, dáng người gầy, tóc cắt ngắn, da ngăm đen và biết N bán ma túy Ketamine. C hỏi mua của N "một chỉ" ma túy Ketamine thì được N báo giá là 2.000.000đ (hai triệu đồng), C đồng ý. Lúc này N nói hiện chỉ còn "nửa chỉ" ma túy Ketamine thì C đồng ý mua "nửa chỉ". Sau đó C trả trước cho N 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) nợ lại 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) và hẹn 17 giờ chiều quay lại để N bán cho C "nửa chỉ" Ketamine còn lại, đồng thời C sẽ thanh toán tổng số tiền là 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng). Sau khi mua được "nửa chỉ" ma túy Ketamine từ N, C đi đến nhà nghỉ AS2 thuộc địa phận thôn Đồng Lư, xã ĐQ, huyện QO, TP. Hà Nội để thuê phòng. Tại đây C được quản lý nhà nghỉ sắp xếp cho thuê phòng 202. Sau đó C cất giấu túi ma túy Ketamine vừa mua được dưới đệm trong phòng. Khoảng 17 giờ cùng ngày, C đi từ nhà nghỉ AS2 đến quán nước tại ngã ba Dốc Quán thuộc thôn 1, xã Cộng Hòa mục đích gặp N để mua tiếp "nửa chỉ" ma túy Ketamine như đã hẹn. Đến nơi C lại gần và đưa cho N số tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng), N bán cho C 01(một) túi nilong màu trắng viền đỏ kích thước khoảng (7,5x4)cm bên trong là 01(một) túi nilong màu trắng, một viền xanh, kích thước khoảng (2,5x2,5)cm chứa ma túy tổng hợp Ketamine. C nhận ma túy rồi đi về nhà nghỉ AS2, còn N đi đâu C không rõ. Khi về đến gần cổng nhà nghỉ AS2 thì C gặp 1 người bạn xã hội tên C, nhà ở thị trấn QO. C hỏi C "anh biết chỗ nào bán "kẹo", "ke" không?". C hiểu là C hỏi mua ma túy nên C trả lời: "có đây, vừa mua được ít "ke" để sử dụng". Sau đó, C thỏa thuận bán cho C ¼ chỉ Ketamin với giá 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm ngàn đồng) và hẹn giao ma túy tại ngã tư đèn tín hiệu giao thông trên đường Phủ Quốc, Thị trấn QO. Thỏa thuận xong, C quay lên phòng 202, lấy 01 (một) túi Ketamine vừa mua được, sau đó chia đôi gói ma túy này thành 02 phần, một phần vẫn để lại trong túi nilong, phần còn lại C gói vào giấy ăn để đem đi bán cho C. Số ma túy Ketamine còn lại, C cất giấu dưới đệm trong phòng 202. Sau đó C gọi xe taxi đi đến ngã tư đèn tín hiệu giao thông trên đường Phủ Quốc để bán ma túy cho C. Đến nơi thấy C đang đứng chờ, C lại gần và đưa cho C gói giấy chứa ma túy Ketamine, thì C nói: "cho em nợ". Do lúc này đang đứng ở ngã tư, đông người qua lại nên C không nói gì, C lên xe taxi và đi về nhà nghỉ AS2.

Khoảng 23 giờ ngày 13/5/2022, C đem nửa túi ma túy Ketamine đã bán một phần cho C để sử dụng. C lấy tờ tiền giấy mệnh giá 1.000đ (một nghìn đồng) để làm dụng cụ "xào Ketamine", xong rồi một mình C sử dụng hết số ma túy đó, còn một túi ma túy Ketamine nguyên vẹn C mua của N vào trưa ngày 13/5/2022, thì vẫn cất giấu xuống dưới đệm cùng với vỏ túi nilong chứa Ketamine đã sử dụng hết ban nãy, nhằm tránh không để người khác phát hiện và nếu có ai hỏi mua sẽ tiếp tục bán túi ma túy Ketamine này.

Khoảng 18 giờ ngày 15/5/2022, bạn gái của C là Phan Thị Mỹ V mới từ Huế ra đến nơi và nằm nghỉ tại phòng. V hoàn toàn không biết việc C cất giấu ma túy dưới đệm. Sau đó C và V đi ăn đêm tại thôn Đồng Lư, xã ĐQ, huyện QO. Đến khoảng 23 giờ 30 phút thì cả hai quay về phòng 202 của nhà nghỉ AS2. Khi vừa vào phòng được 10 phút thì Cơ quan C an đến kiểm tra hành chính đã phát hiện dưới đệm, cách thành giường 30cm có 01 (một) túi nilong màu trắng kích thước (7,5x4) cm bên trong có 02 (hai) túi nilong màu trắng, đều có kích thước (2,5x2,5) cm, trong đó một túi chứa tinh thể màu trắng và một túi dính tinh thể màu trắng, C khai nhận đó là ma túy Ketamine do C mua về nhằm mục đích để bán kiếm lời. Cơ quan C an đã tiến hành lập biên bản thu giữ, niêm phong tang vật, sau đó đưa C và V về trụ sở để làm rõ.

Thu giữ của Lê Xuân C:

- 01 (một) túi nilong màu trắng viền đỏ, kích thước khoảng (7,5x4) cm bên trong gồm:

+ 01 (một) túi nilong màu trắng viền xanh kích thước khoảng (2,5x2,5) cm bên trong chứa tinh thể màu trắng;

+ 01 (một) túi nilong màu trắng viền xanh kích thước khoảng (2,5x2,5) cm bên trong dính tinh thể màu trắng;

- 01(một) ví màu nâu, bên trong có 01(một) căn cước công dân mang tên Lê Xuân C;

- Số tiền: 2.000.000đ (hai triệu đồng);

Thu giữ của Phan Thị Mỹ V: 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, bên trong có lắp 01(một) sim Mobifone, số thuê bao 076X1269.

Tại Bản kết luận giám định số: 3236/KLGĐ – PC09 ngày 23 tháng 5 năm 2022 của Phòng kỹ thuật hình sự C an TP. Hà Nội kết luận:

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni lông màu trắng viền xanh là ma túy loại Ketamine, khối lượng: 1,171gam.

- 01 túi ni lông màu trắng viền xanh có dính ma túy loại Ketamine.

Cơ quan CSĐT C an huyện QO đã tiến hành kiểm tra điện thoại của V, xác định không chứa nội dung liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của C. Ngày 16/5/2022, CQĐT đã ra trả lại cho V chiếc điện thoại di động.

Quá trình điều tra Lê Xuân C đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án.

Bản cáo trạng số 45/CT – VKSQO ngày 04 tháng 8 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện QO đã truy tố bị cáo Lê Xuân C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

* Bị cáo khai nhận hành vi của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện QO giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Xuân C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị:

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt Lê Xuân C từ 27 tháng đến 30 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/5/2022.

- Về hình phạt bổ sung: không áp dụng do không có thu nhập ổn định.

- Về vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy 01(một) phong bì màu trắng được dán kín, mặt sau tại các mép dán có chữ ký của bị cáo, cán bộ C an huyện QO và chữ ký của giám định viên.

+ Trả lại cho bị cáo 01 ví da mầu nâu, 01 căn cước công dân mang tên Lê Xuân C.

+ Trích 200.000đ từ số tiền 2.000.000đ để đảm bảo thi hành án. Trả lại bị cáo số tiền 1.800.000đ.

- Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, phạm tội lần đầu, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – C an huyện QO, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện QO, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo và không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 16/5/2022, tại phòng 202 nhà nghỉ AS2 thuộc địa phận thôn Đồng Lư - xã ĐQ - huyện QO - Thành phố Hà Nội, Lê Xuân C có hành vi tàng trữ 01 (một) túi ma túy tổng hợp Ketamine khối lượng: 1,171gam nhằm mục đích để bán kiếm lời nhưng chưa kịp bán thì bị C an huyện QO phát hiện và bắt giữ.

Hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện QO truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Tệ nạn ma túy làm ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế, tha hóa đạo đức và là nguyên nhân làm phát sinh các loại tệ nạn xã hội khác. Bị cáo đã thành niên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do hám lời nên đã cố ý phạm tội. Vì vậy, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích và phòng ngừa tội phạm nói chung. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[4]. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhân thân chưa có tiền án tiền sự, lần đầu phạm tội, có ông nội là liệt sĩ nên được giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về hình phạt bổ sung: không áp dụng do bị cáo không có việc làm và thu nhập.

[6]. Về vật chứng:

- Toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. Sau khi lấy mẫu giám định, phần còn lại được niêm phong trong 01 phong bì màu trắng, tại các mép dán có chữ ký của bị cáo, cán bộ C an huyện QO và chữ ký của giám định viên.

- Trả lại cho bị cáo 01 ví da mầu nâu, 01 căn cước công dân mang tên Lê Xuân C.

- Số tiền 2.000.000đ bị cáo khai là tiền bán chiếc điện thoại di dộng để tiêu xài cá nhân, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành 200.000đ án phí hình sự.

[7]. Đối với Phan Thị Mỹ V, quá trình ở tại phòng 202 nhà nghỉ AS2 với C, V không biết C mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy, cũng không giúp sức gì cho C trong việc mua bán trái phép chất ma túy, không sử dụng trái phép chất ma túy. Tiến hành xét nghiệm nước tiểu đối với V cho kết quả âm tính với ma túy. Ngày 16/5/2022, Cơ quan CSĐT C an huyện QO đã ra Quyết định trả tự do đối với V là có căn cứ.

Đối với Lê Văn Chuẩn là quản lý nhà nghỉ AS2 không biết bị cáo thuê phòng để sử dụng và tàng trữ trái phép chất ma túy; Không giúp sức cho C thực hiện hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy nên không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự.

Bị cáo khai không biết địa chỉ, họ tên cụ thể của đối tượng tên N đã bán ma túy Ketamine cho bị cáo vào ngày 13/05/2022 tại khu vực ngã ba Dốc Quán thuộc thôn 1 – xã Cộng Hòa – huyện QO. Quá trình giao dịch mua bán ma túy không thông qua điện thoại di động. Cơ quan CSĐT đã tiến hành xác minh với C an xã Cộng Hòa nhưng không xác định được đối tượng nào tên N có đặc điểm như C miêu tả.

Bị cáo còn khai nhận ngày 13/5/2022 đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho 1 đối tượng tên C tại khu vực ngã tư đèn tín hiệu giao thông trên đường Phủ Quốc thuộc thị trấn QO – huyện QO. C không biết đầy đủ họ tên, chỉ biết C ở thị trấn QO. Cơ quan CSĐT tiến hành xác minh nhưng không xác định được đối tượng nào tên C có đặc điểm như C miêu tả. Ngoài lời khai của C, không có tài liệu nào khác để chứng minh, kết luận về việc mua bán ma túy giữa C với C.

[8]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Xuân C phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Xuân C 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/5/2022.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì màu trắng được niêm phong dán kín. Mặt sau phong bì tại các mép dán có chữ ký của bị cáo C, cán bộ C an huyện QO và chữ ký của giám định viên.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng) để đảm bảo thi hành án. Sau khi trừ 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm thì trả lại cho bị cáo 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng).

- Trả lại cho bị cáo 01 ví da mầu nâu, 01 căn cước công dân mang tên Lê Xuân C.

Hiện vật chứng đang lưu giữ tại kho Chi cục thi hành án dân sự huyện QO, tình trạng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 43/2022/THA ngày 19/8/2022 giữa C an huyện QO và Chi cục thi hành án dân sự huyện QO; Ủy nhiệm chi lập ngày 16/8/2022 giữa C an huyện QO và Kho bạc nhà nước huyện QO.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về chế độ án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 39/2022/HS-ST

Số hiệu:39/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quốc Oai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;