TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 354/2024/HS-PT NGÀY 17/04/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 17 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 111/2024/TLPT- HS ngày 31 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo Tô Xuân L do có kháng cáo của bị cáo Tô Xuân L đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 378/2023/HS-ST ngày 29/12/2023 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
* Bị cáo có kháng cáo:
Tô Xuân L, sinh năm 1991. ĐKHKTT và nơi cư trú: Xóm S, xã G, huyện G, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tô Văn L và bà Vũ Thị H; có vợ Bùi Thị T (đã ly hôn năm 2015), chưa có con; tiền sự: Không;
Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 80/2022/HSST ngày 19/5/2022 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội xử phạt 08 tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”. (Ra trại ngày 28/8/2022, chưa được xóa án tích);
Nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2018/HSST ngày 25/01/2018 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xử phạt 10 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. (ra trại ngày 12/8/2018, nộp án phí ngày 02/7/2018, đã được xóa án tích);
Danh chỉ bản số 000000503 lập ngày 25/6/2023 tại Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/6/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.
* Bị cáo không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị:
Vũ Văn H, sinh năm 1991.
ĐKHKTT và nơi cư trú: Xóm H, xã G, huyện G, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn H1 và bà Nguyễn Thị L; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không;
Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/6/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 01 giờ 30 phút ngày 20/6/2023, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Nam Từ Liêm làm nhiệm vụ tại khu vực đường Nguyễn Cơ Thạch, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Khi Tổ công tác đến Chung cư AX2 ngõ 18 Nguyễn Cơ Thạch phát hiện Vũ Văn H điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Dream, BKS: 51K1 – X có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra phát hiện tay trái của H đang cầm 01 túi nilong bên trong có 05 viên nén màu nâu. Tại chỗ, Vũ Văn H khai nhận viên nén màu nâu là ma túy “kẹo” được bạn cùng phòng trọ là Tô Xuân L nhờ mang đi bán cho khách. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong tang vật, áp giải H đến phòng trọ của H và L tại địa chỉ phòng 303, số nhà 35, ngõ 84 đường Cổ Nhuế, phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội và triệu tập Tô Xuân L để đấu tranh làm rõ hành vi.
Vật chứng thu giữ:
- 01 (một) túi nilong bên trong có 05 viên nén màu nâu;
- 01 (một) điện thoại kiểu dáng Iphone 8 Plus màu hồng, gắn sim số 0868.390.X (thu giữ của Vũ Văn H);
- 01 (một) xe máy kiểu dáng Honda Dream, BKS: 59K1 - X, (thu giữ của Vũ Văn H);
- 01 (một) điện thoại kiểu dáng Iphone 7 Plus màu hồng, gắn sim 0825.175.X (thu giữ của Tô Xuân L).
- 01 (một) điện thoại kiểu dáng Iphone 7 màu hồng, Imei: 355347084563333, không gắn sim (thu giữ của Tô Xuân L).
- 01 (một) điện thoại kiểu dáng Iphone 13 màu xanh, gắn sim 0972.211.126 (thu giữ của Tô Xuân L).
Quá trình điều tra xác định:
Bản thân Tô Xuân L mới ra tù vào ngày 28/8/2022, không có việc làm ổn định và hiện thuê trọ ở tại địa chỉ phòng 303, số nhà 35, ngõ 84 đường Cổ Nhuế, phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên L nảy sinh ý định bán ma túy thuê cho các đối tượng trên mạng xã hội Facebook để được hưởng tiền công từ 20-30 triệu đồng/tháng, sau đó theo hướng dẫn của người này L kết bạn với các tài khoản Zalo “Bốp”, “Tốp” và “Cua”, lưu trong danh bạ điện thoại “a bốp” số điện thoại 0946.594.X. “Bốp” thỏa thuận mỗi lần sẽ giao cho L số lượng từ 10-15 viên ma túy “kẹo”, khi có đơn hàng “Bốp” sẽ nhắn tin địa chỉ, số điện thoại qua Zalo cho L để đóng gói mang đi giao cho khách mua đồng thời để tránh bị phát hiện thì “Bốp” và L thống nhất gọi ma tuý “kẹo” là “bia”; Ketamine là “rượu vang”. Mỗi đơn hàng thành công thì “Bốp” sẽ trả công cho L số tiền từ 300.000 đến 400.000 đồng bằng cách chuyển khoản vào tài khoản ngân hàng Quân đội của Tô Xuân L. “Bốp” cũng yêu cầu L mở tài khoản ngân hàng Vietcombank, số tài khoản 9972211126 đứng tên chính chủ của L nhưng “Bốp” mới là người sử dụng và trả tiền thuê số tài khoản này 2.000.000 đồng/tháng.
Khoảng cuối tháng 5/2023, L rủ bạn cùng quê là Vũ Văn H đến ở cùng phòng trọ để đi giao ma túy khi L có việc bận, thỏa thuận mỗi đơn hàng thành công sẽ trả công cho H từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng, H đồng ý. Khoảng 18 giờ ngày 18/6/2023, L nhận được từ người giao hàng 01 túi nilong màu đỏ có 01 con chuột máy tính tại gần phòng trọ của mình ngõ 84 đường Cổ Nhuế, phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội do “Bốp” cho người ship đến. Khi kiểm tra bên trong con chuột máy tính có 10 viên ma túy “kẹo” nên L cất giấu tại phòng trọ của mình để giao cho khách. Sau đó “Bốp” nhắn địa chỉ để L mang 05 viên ma túy “kẹo” đi giao cho khách tại khu vực đường Trần Duy Hưng tuy nhiên khi đến nơi do không liên lạc được với khách mua nên L mang số ma túy này về phòng trọ cất giấu.
Khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, “Bốp” nhắn tin cho L đi giao 05 viên ma tuý “kẹo” đến số 360 Kim Mã và gửi kèm số điện thoại 0867.600.X của người mua. Do L đi uống rượu say nên đã nhắn tin cho Vũ Văn H đi giao số ma túy “kẹo” đến số 360 Kim Mã. H đồng ý rồi theo hướng dẫn của L về phòng lấy 05 viên ma tuý “kẹo” và giao đơn hàng này cho khách, L chưa trả công cho H.
Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, “Bốp” tiếp tục nhắn tin để L đi giao 05 viên ma túy “kẹo” đến địa chỉ chung cư AX2, ngõ 18 Nguyễn Cơ Thạch, Cầu Diễn, Nam Từ Liêm, Hà Nội cho người mua sử dụng số điện thoại 0343.405.X. L tiếp tục thuê H đi giao ma tuý. H đồng ý và về phòng trọ lấy 05 viên ma tuý “kẹo” để trong 01 túi nilong và một mình điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Dream BKS: 59K1- X đến địa điểm trên để bán ma tuý. Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 20/6/2023, khi H đến địa điểm trên và đang chờ gặp khách mua ma túy thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Nam Từ Liêm kiểm tra phát hiện bắt quả tang.
Tại Bản kết luận giám định số 4179 ngày 27/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội xác định:
“- 05 viên nén màu nâu trên mặt mỗi viên dập chữ Rolex có tổng khối lượng: 1,932 gam đều là ma túy loại MDMA.” Về nguồn gốc số ma túy: Tô Xuân L khai được đối tượng có tài khoản Zalo “Bốp”, “Tốp” và “Cua” thuê bán ma tuý để hưởng tiền công, L lưu trong danh bạ điện thoại “a bốp” số điện thoại 0946.594.X. Cơ quan điều tra tiến hành xác định chủ thuê bao nêu trên là chị Lê Thị Thiết (sinh năm 1961; HKTT: Số 76 Lê Quang Định, phường 9, thành phố Vũng Tàu, Bà Rịa Vũng Tàu). Chị Thiết khai không đăng ký và sử dụng số điện thoại trên, không quen biết với Tô Xuân L và Vũ Văn H, không biết đối tượng “Bốp”, “Tốp”, “Cua” là ai. Do cả Tô Xuân L và Vũ Văn H đều không biết nhân thân, lai lịch của “Bốp”, “Tốp” và “Cua”, khi L gặp thì đối tượng này đeo khẩu trang không nhìn rõ mặt nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, làm rõ.
Về người mua mua tuý tại số 360 Kim Mã, sử dụng số điện thoại 0867.600.X: Cơ quan điều tra tiến hành xác định chủ thuê bao là chị Ngô Thị Hiền (sinh năm 1983; HKTT: Xuân Tiến, Quảng Long, Quảng Xương, Thanh Hoá). Chị Hiền khai không đăng ký và sử dụng đối với số điện thoại trên, không quen biết với Tô Xuân L, Vũ Văn H và đối tượng sử dụng tài khoản Zalo “Bốp”. Do cả L và H không biết nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, làm rõ.
Về người mua mua tuý tại số 360 Kim Mã, sử dụng số điện thoại 0868.375.X. Cơ quan điều tra tiến hành xác định chủ thuê bao là anh Ngô Trí D (sinh năm 2001; HKTT: Xóm Liên Hoa, xã Diễn Xuân, huyện Diễn Châu, Nghệ An). Anh D khai không đăng ký và sử dụng đối với số điện thoại trên, không quen biết với Tô Xuân L, Vũ Văn H và đối tượng sử dụng tài khoản Zalo “Bốp”, Do Vũ Văn H và Tô Xuân L không biết nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, làm rõ.
Về người mua mua tuý tại ngõ 18 Nguyễn Cơ Thạch sử dụng số điện thoại 0343405X: Cơ quan điều tra tiến hành xác định chủ thuê bao là anh Đinh Bá Th (sinh năm 2005; HKTT: Ấp Ngọc Lợi, xã Ngọc Thành, huyện Giồng Riềng, Kiên Giang). Anh Th khai không đăng ký và sử dụng đối với số điện thoại trên, không quen biết với Tô Xuân L và Vũ Văn H. Do L và H không biết nhân thân, lại lịch của đối tượng này, thời điểm bị phát hiện hành vi thì H cũng chưa gặp người mua ma túy nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, làm rõ.
Về cách thức trả tiền công giao ma túy: “Bốp” nói L mở tài khoản ngân hàng Vietcombank, số tài khoản 9972211126 mang tên Tô Xuân L và thuê số tài khoản trên số tiền 2.000.000 đồng/tháng rồi sử dụng chính tài khoản này để trả công giao ma tuý cho L (đến số tài khoản 05000111156789, ngân hàng MBbank của L). Do cả tài khoản chuyển và tài khoản nhận tiền đều đứng tên Tô Xuân L nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác định đối tượng “Bốp”.
Đối với chiếc xe máy kiểu dáng Honda Dream, BKS: 59K1-X mà Vũ Văn H dùng là phương tiện để đi giao ma túy: Quá trình điều tra xác định người đứng tên đăng ký chiếc xe trên là anh Lê Minh S (Địa chỉ: 345/14K Hậu Giang, phường 5, quận 6, Hồ Chí Minh). Xác minh tại địa chỉ trên được Công an địa phương cung cấp anh S có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương nhưng hiện nay cả gia đình đã bán nhà đi khỏi nơi đăng ký hộ khẩu thường trú từ lâu, chính quyền không biết hiện nay anh S ở đâu, làm gì.
Vũ Văn H khai mua chiếc xe trên tại cửa hàng mua bán xe máy cũ tại huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định (không nhớ địa chỉ) với giá 10.000.000 đồng để sử dụng cho nhu cầu đi lại của bản thân, ngày 20/6/2023 khi H đã sử dụng chiếc xe máy trên bán ma tuý thì bị bắt. Tra cứu dữ liệu xe máy vật chứng chiếc xe máy trên không nằm trong dữ liệu xe máy vật chứng. Do không xác định được chủ sở hữu liên quan nên Cơ quan điều tra chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm để phục vụ công tác xét xử, thi hành án đúng theo thẩm quyền.
Tại Cơ quan điều tra, Vũ Văn H và Tô Xuân L khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Lời khai của các đối tượng phù hợp khách quan với lời khai của người chứng kiến, biên bản phạm tội quả tang, biên bản dẫn giải, tang vật và tài liệu chứng cứ thu thập được.
Tại bản Cáo trạng số 378/CT-VKS ngày 20/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội truy tố Tô Xuân L và Vũ Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Bản án hình sự sơ thẩm số 378/2023/HSST ngày 29/12/2023 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội:
Tuyên bố bị cáo Tô Xuân L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Tô Xuân L 09 (Chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/6/2023.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về tội danh, điều luật và mức hình phạt đối với bị cáo Vũ Văn H, tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 04/01/2024, bị cáo Tô Xuân L kháng cáo với nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Tô Xuân L thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, tỏ ra ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội nhận định:
Về hình thức kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Tô Xuân L trong thời hạn luật định, đúng về chủ thể, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về nội dung kháng cáo:
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Tô Xuân L tại phiên tòa, có đủ cơ sở xác định: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Tô Xuân L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Tô Xuân L 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là phù hợp, tương xứng với nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hậu quả xảy ra và hành vi phạm tội của bị cáo.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tô Xuân L và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Cụ thể, áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Tô Xuân L 09 (Chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 20/6/2023.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]Đơn kháng cáo của bị cáo Tô Xuân L trong thời hạn luật định, đúng về chủ thể, được Hội đồng xét xử chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2]Căn cứ vào lời khai của bị cáo Tô Xuân L, vật chứng thu được, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 19/6/2023, tại khu vực số 360 Kim Mã, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, Vũ Văn H có hành vi bán trái phép ma túy cho một người không quen biết để hưởng tiền công theo sự chỉ đạo của Tô Xuân L. Đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 20/6/2023, khi Vũ Văn H đang đợi khách mua ma túy (vẫn theo sự chỉ đạo việc đi giao ma túy của Tô Xuân L) tại chung cư AX2, ngõ 18 Nguyễn Cơ Thạch, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội thì bị Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Nam Từ Liêm phát hiện bắt quả tang.
Hành vi của bị cáo Tô Xuân L đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên”. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Tô Xuân L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Tô Xuân L, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội, gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho đời sống xã hội. Bản thân bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì hám lợi nên vẫn cố ý phạm tội. Do đó, cần phải xử lý nghiêm bị cáo theo quy định của pháp luật để răn đe và phòng ngừa chung.
Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo Tô Xuân L có nhân thân xấu, bị cáo có 01 tiền án (chưa được xóa án tích) nhưng vẫn tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự là phù hợp.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Toà án cấp sơ thẩm xem xét quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Tô Xuân L thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có người thân (bố ruột) là người có công với cách mạng để cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá vai trò phạm tội của bị cáo Tô Xuân L và bị cáo Vũ Văn H khi quyết định mức hình phạt đối với từng bị cáo là phù hợp.
Tại cấp phúc thẩm, gia đình của bị cáo Tô Xuân L xuất trình tài liệu thể hiện bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố của bị cáo là người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học do Mĩ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam, mẹ của bị cáo bị mắc bệnh hiểm nghèo (có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã G, huyện G, tỉnh Nam Định) nên Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xét mức hình phạt 09 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là có phần nghiêm khắc nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tô Xuân L và sửa quyết định của bản án sơ thẩm, giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở về với xã hội, cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo và ngăn ngừa tội phạm chung.
[4]Hội đồng xét xử sửa quyết định của bản án sơ thẩm nên bị cáo Tô Xuân L không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Bị cáo Vũ Văn H không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị. Bị cáo Vũ Văn H nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội với vai trò là người giúp sức nhưng Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng mức hình phạt 08 năm tù đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Căn cứ khoản 3 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Vũ Văn H, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
[6]Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tô Xuân L và sửa Quyết định của bản án sơ thẩm:
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Tô Xuân L 08 (Tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 20/6/2023.
2. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, sửa Quyết định của bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Vũ Văn H:
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Vũ Văn H 07 (Bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 20/6/2023.
3. Về án phí: áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Tô Xuân L không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 17/4/2024.
Bản án 354/2024/HS-PT về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 354/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về